cường máy bay và tàu tiếp vận. Sukarno hứa sẽ chấm dứt những
hoạt động như vậy.
Cũng trong ngày Indonesia cho người nhảy dù xuống, các
cuộc đụng độ Malay – Hoa đã nổ ra tại Geylang. Một người phu
xích lô bị giết và tài xế của một chiếc xe hơi bị tấn công. Bất kể
lệnh giới nghiêm, bạo động vẫn diễn ra trong suốt ba ngày liền,
với 13 người bị giết và 109 người bị thương. Một lần nữa, thiệt
hại của người Malay hay người Hoa cũng ngang nhau. Lúc đó tôi
đang ở Brussels dự lễ kỷ niệm 100 năm Quốc tế Xã hội chủ
nghĩa. Chin Chye, Thủ tướng nhiệm quyền, nói rằng các mật
viên Indonesia đã gây ra chuyện bạo loạn. Tình hình trở nên bấp
bênh đến độ chỉ cần người Malay hăng lên hành hung một vài
người Hoa thôi là cuộc trả đũa sẽ nổ ra liền.
Sau khi nổ ra vụ bạo loạn lần thứ hai, nội các Malaysia, trước
áp lực ngày càng tăng của công chúng tại Singapore, đã ra lệnh
thành lập một ủy ban điều tra do thẩm phán E.A. Chua làm chủ
tịch; để điều tra nguyên nhân của những rối loạn tại đây, cũng
như những vụ trước đó tại Bukit Mertajam thuộc tỉnh Wellesley.
Tuy nhiên chính phủ liên bang lại ra lệnh giữ kín nó trước công
chúng và báo chí. Mãi đến ngày 20/4/1965, tức bảy tháng sau
đó, ủy ban mới tiến hành các cuộc thẩm cung.
Trong diễn văn khai mạc, cố vấn chính phủ Malaysia nói
rằng ông sẽ chứng tỏ hai vụ rối loạn trên đều là việc làm của các
mật viên Indonesia tại Singapore. Ông đã cho triệu ra hầu tòa
85 nhân chứng để cung cấp bằng chứng cho điều này, thế
nhưng bằng chứng của 5 nhân chứng quan trọng mà ông đưa ra
đã không chỉ ra được điều đó. Tất cả họ đều khăng khăng phủ
nhận chuyện Indonesia có ít nhiều dính dáng đến những vụ bạo
động. Cuộc chất vấn một nhân chứng thuộc loại hàng đầu đã
diễn ra như sau: