mài đi mài lại. Thuốc lá thì giá trị hơn tiền do Nhật phát hành.
Một số nghề suy thoái và không kiếm ra tiền. Chẳng còn mấy ai
cần đến luật sư giỏi luật của Anh nữa, vì chẳng có bao nhiêu
hoạt động thương mại, và thiết quân luật đã giải quyết tội phạm
rất gọn gàng. Nghề kế toán cũng đình trệ vì không có kinh
doanh gì đáng kể. Nhưng trái lại, bác sĩ và nha sĩ vẫn cần thiết
như xưa vì người ta cứ bệnh và cứ đau răng, nên những nghề
này cứ ăn nên làm ra cho dù khan hiếm thuốc uống và thuốc tê.
Trong mười tháng đầu của thời chiếm đóng, người ta cũng
thường thấy những nhóm tù binh chiến tranh người Úc và Anh
lao động trong thành phố với một ít lính Nhật đi theo canh gác.
Thường thì họ làm những việc như chuyển hàng từ kho lên xe
tải. Họ có thể lẻn vào một quán cà phê gần đó tìm thức ăn, các
ông chủ hay những bà nội trợ bình thường sẽ cho họ bánh mì,
đồ hộp hay ít tiền bạc. Người Hoa rất có cảm tình với họ. Họ đã
gầy đi và trông thật thảm não trong cảnh tù đày. Đồng phục của
họ, thường là sơ mi và quần soọc, thường rách tả tơi. Đến cuối
năm 1942, người ta ít thấy họ hơn, và một năm sau lại càng
hiếm. Người ta cho rằng họ đã bị đưa đi lao động ở nơi khác,
Thái Lan, Indonesia hay Nhật. Khi họ xuất hiện trở lại tại
Singapore vào cuối năm 1944 đầu 1945, họ chỉ còn da bọc
xương, những bộ xương sườn lộ rõ đến nỗi có thể đếm được. Họ
đã lao động xây tuyến đường sắt Miến Điện. Một số người chỉ
mặc đồ lót, xương hông của họ lòi ra. Trông họ tội nghiệp, đầy
vết viêm loét, sẹo và ghẻ lở, nhất là ở tay chân. Thực phẩm thì
khan hiếm, nhưng không khan hiếm đến độ họ không có đủ cái
ăn. Những chịu đựng của họ vượt xa cảnh ngộ của mọi tù binh
chiến tranh ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Việc chuyển từ tiếng Anh sang tiếng Nhật như là thứ ngôn
ngữ hành chính và của giới cầm quyền đã khiến người già rơi