Nhụ cũng cất đi rồi. Cả nhà nhìn lên góc tường, thấy trống trếnh hẳn đi,
nhưng không ai nỡ hỏi.
Dạo ấy đang vào kỳ đông ken. Nước ngọt rất khan hiếm. Có mấy cái
giếng công cộng, rất to, cạn trơ cả những hòn đá cuội, nhẵn lì, mốc thếch.
Trẻ con rủ nhau xuống tận đáy giếng mà chơi đình chùa. Giá một gánh
nước ở ngoài chợ Rừng, lên đến ba đồng, bốn đồng, rồi năm đồng, sáu
đồng, vẫn cứ phải mua về để uống. Sà lan cứu khát cập vào mé sông Bạch
Đằng, cũng chỉ đủ nước phân phối cho mỗi gia đình liệt sĩ nửa gánh một
ngày. Những ngày cuối cùng ở nhà, chị Chiêm chỉ đi gánh nước. Cái giếng
còn nước cách nhà đến bốn cây số ở trong bóng mát của hai cây lim cổ bảy
trăm năm có từ thời cụ Trần Hưng Đạo. Thùng cứ xếp thành hàng dài.
Người ta nhường lối cho chị. Chị đổ đầy nước vào cái bể con. Chị đổ đầy
nước vào các phuy và thùng. Chị đổ đầy nước vào các nồi to và chậu thau.
Lúc vai chị rời đòn gánh, chị gác đòn gánh lên hai cái đinh thuyền, đóng ở
đầu hồi nhà. Những hạt cát đen xỉn bám vào gấu quần, chị chỉ kịp phủi qua
qua, rồi lấy lược làm bằng mảnh máy bay giặc Mỹ, giắt ở đằng sau cái
gương, chải sơ sơ lên mái tóc. Thế rồi chị đi. Đơn giản như đi ra chợ Rừng
mua mấy hào bồ kết về gội đầu. Mọi người trong nhà, và cả chính chị nữa,
không ai ngờ rằng, lần ấy chị đi là đi mãi mãi...
Anh thứ hai là Thu, mới đi bộ đội hải quân, hiện đang đóng ở quần đảo
Trường Sa xa tít tắp. Buổi sáng anh Thu đi, mẹ Nhụ gói cho anh một cái
chả cá rất to, rồi tiễn anh ra tận bến Ngự. Thấy mẹ vui cười, tự nhiên anh
Thu lại bật khóc. Nhụ hiểu là anh thương mẹ. Còn Nhụ thì thương cả mẹ
lẫn anh. Nhụ nắm lấy tay anh, rồi lại nép vào nách mẹ. Nhụ chợt nhận ra
chiếc áo mẹ mặc hôm ấy, chính là chiếc áo chị Chiêm may cho. Chị lặn hà
dưới đáy sông Bạch Đằng. Chị bán hà đi, mua vải về nhà, tự tay khâu áo
cho mẹ. Chiếc áo màu nâu sẫm, vạt hơi thô, nhưng đường chỉ nhỏ và rất
mềm, lẩn dưới những sợi vải, mới trông cứ tưởng như máy.
Bữa ấy, vừa về đến cửa, Nhụ đã trông thấy ông ngồi một mình trên
phản ở trong nhà. Ông giơ tay vẫy ngoắt một cái. Thế nghĩa là ông bảo Nhụ
vào cho ông hỏi. Ông thường nói bằng mắt và bằng tay. Ở trên mặt biển thì
đó là một điều rất bình thường. Nhưng ở nhà, ông cũng "nói" theo cách đó.
Dần dần, con cháu cũng phải quen. Đến mười năm nay, ông không đi biển.
Đôi khi chạnh lòng buồn, nhớ lại thuở ngủ gió ăn sóng, ông lại cởi trần
trùng trục, một mình một con lẵng đi đến dăm bảy ngày, hoặc câu cá ở ven
biển, hoặc soi cua ở trên cồn, chân các đảo đá, lang thang sương khói dọc
theo triều lên xuống của con nước. Thi thoảng ông cho Nhụ đi theo, để móc
mồi, gỡ cá bị kẹt trong hốc đá hay đám sú vẹt và dạy Nhụ hàng trăm chi tiết
của nghề biển, nghề sông. Vài tháng gần đây, ông hay đến chơi nhà các bạn
già, có khi ăn và ngủ luôn ở đấy.