tầm cỡ. Nhưng thực ra ông cũng không thể đảm nhiệm cả hai vị trí
này.
Lý do là vấn đề thuế. Berkshire hiện đã nặng gánh với các
khoản thuế thu nhập, một loại chi phí mà công ty hợp danh không
phải chịu. Mặt khác, Buffett không thu một đồng phí nào từ các
cộng sự từ việc quản lý tiền bạc của họ. Đó là một giao kết tốt đẹp
cho mọi người (ngoại trừ Buffett), hay ít ra thì lòng trung thành của
các cổ đông cũng cho thấy rằng họ nghĩ như thế. Nhưng, hiện tại,
ở
năm 1986 này, Quốc hội Mỹ đã thông qua một đạo luật về cải
cách thuế khóa, và nhiều vấn đề khác, bãi bỏ cái gọi là Thuyết
Vị Lợi Chung (General Utilities Doctrine). Trước kia, một công ty có
thể bán tài sản của nó cho các cổ đông và các cổ đông sẽ bị đánh
thuế trên thu nhập họ kiếm được qua thương vụ đó, nhưng không
bị đánh thuế hai lần.
Một khi Thuyết Vị Lợi Chung bị bãi bỏ, mọi cuộc thanh lý tài sản
và phân chia tài sản của một công ty sẽ dẫn đến kết quả là công ty
sẽ bị đánh thuế trên lợi nhuận thu được, hoặc các cổ đông phải chịu
một loại thuế khi được phân phối lợi nhuận. Vì các khoản thuế
trùng sẽ cộng dồn thành một con số rất lớn nên các công ty thuộc
sở hữu gia đình hay có lượng cổ đông hạn chế đổ xô vào cuộc tự
thanh lý tài sản trước khi đạo luật này có hiệu lực. Buffett, người từng
viết cho các cổ đông của mình và nói rằng Berkshire đã đạt tầm cỡ
lớn đến mức tiền bạc của nó là một vật cản đối với hoạt động đầu
tư thành công, có thể phải phân phối tài sản của công ty và sau đó sẽ
huy động một số vốn với qui mô vừa phải và có thể quản lý được,
tuy vẫn ở con số hàng tỉ, để thành lập một công ty hợp danh mới và
tiến hành các hoạt động đầu tư ngay trong vài tuần sau đó (nhưng
lần này có thu phí quản lý). Với 1,2 tỉ đô la lợi nhuận chưa được
quyết toán trên bảng cân đối kế toán của Berkshire, nếu Buffett
quyết định thanh lý Berkshire, ông có thể giúp các cổ đông của mình