trợ cấp thôi việc, họ nhất trí với nhau. Và, công ty sẽ cắt cả khoản
thanh toán chi phí tư vấn luật cho các cựu quản lý của Salomon.
Vở kịch lúc này xoay quanh hai điều: Những cân nhắc của Cục
Dự trữ Liên bang về việc tiếp tục xem Salomon là một nhà phân
phối cấp I hay không, và vụ phạm pháp hình sự. Cục Dự trữ Liên
bang thiếu một lựa chọn thiết thực về việc tạm thời ngừng hoạt
động đấu thầu trái phiếu của Salomon. “Điều đó cũng giống
như đem trấn nước một người nào đó về mặt kỹ thuật nhưng sau đó
lại làm cho họ hồi tỉnh.” Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Alan
Greenspan nói. Vào tháng Mười, Cục Dự trữ Liên bang nghiêm túc
xem xét vụ việc và quyết định để Salomon té ngã. Cứ giữ công ty
trong tình trạng lơ lửng có lẽ sẽ bị “các chính trị gia mắng nhiếc
không kịp vuốt mặt.”
Các công tố viên của Phòng Chưởng lý Hoa Kỳ cho rằng họ đã
có đủ bằng chứng để ra phán quyết. Luật Hình sự Mỹ làm cho việc
bảo vệ các công ty trước các hành vi phạm pháp của nhân viên trở
nên rất khó khăn. Gary Naftalis, luật sư hình sự của Salomon,
khuyên công ty rằng “Salomon rõ ràng là sẽ bị tuyên bố có tội” một
khi họ ra phán quyết. Vì những lý do hiển nhiên, mọi người trong
công ty đều tuyệt vọng chấp nhận vụ việc được giải quyết bằng
luật hình sự. Khi nào bản án này còn treo lơ lửng trên đầu công ty,
Salomon còn hoạt động dưới giá treo cổ, và các khách hàng của họ
đều biết điều đó. Nhưng Naftalis không vội vàng gì. Ông ta lý giải
rằng một quyết định nhanh có lẽ đồng nghĩa với một bản tuyên án
“có tội” ngay lập tức, trong khi ông ta có thể dùng thời gian trì hoãn
để vận động hành lang để thuyết phục rằng Salomon không đáng
bị kết tội như thế. Thời gian trì hoãn sẽ giúp Salomon có cơ hội
chứng minh thiện chí hợp tác sửa chữa sai lầm của mình; thời gian
trì hoãn còn làm cho khả năng tuyên án của các ủy viên công tố có
thể không xảy ra.