đáng được khen thưởng hậu hĩnh. Việc công ty không tạo ra được thu
nhập không phải là lỗi của họ. Làm thế nào họ có thể bán được các
hoạt động cho vay vốn đầu tư trong khi công ty đang nằm trong
hiểm họa của một phán quyết “có tội”. Chẳng lẽ Buffett không hiểu
điều đó? Họ phải đương đầu với sự thật rằng tất cả mọi người ở
Wall Street biết rằng Buffett nghĩ các nhà đầu tư ngân hàng
không là gì cả ngoài một lũ huênh hoang khoác lác vô dụng ăn mặc
bảnh bao, tay áo cài những chiếc khuy măng-sét thời thượng. Đồng
thời, bất kể các rắc rối của mình, Salomon vẫn có một năm kinh
doanh khá thành công về mặt tài chính. Họ phật ý khi bị gọi là
những kẻ tham lam bởi chính một tỉ phú hám lợi.
Các nhà kinh doanh suy thoái, lực lượng bán hàng và các chủ nhà
băng khác phải trì hoãn cho đến cuối năm, thời gian truyền
thống cho các cuộc nghỉ việc sau khi các khoản tiền thưởng cá nhân
được chi trả và các quỹ thưởng nhỏ hơn, nhưng chí ít cũng nhiều
triệu đô la, bị hoãn lại trước đó, lúc này được tất toán với nhân viên.
Khi quỹ khen thưởng được phân chia vào trước kỳ nghỉ cuối năm,
trận chiến tiền thưởng lên đến đỉnh điểm. Mười ba nhà quản lý
cấp cao nhất thấy rằng tiền thưởng của họ bị cắt giảm một nửa.
Ngay khi con số vừa được thông báo, các hành lang của Salomon và
cả sàn giao dịch đồng loạt đứng lên nổi loạn. Trước việc ngân sách và
các khoản tiền thưởng bị xà xẻo, các nhà giao dịch chứng khoán và
các nhân viên kinh doanh đầu tư ngân hàng bỏ ra về. Một nửa bộ
phận tài trợ vốn doanh nghiệp – sân nhà của các ngân hàng đầu tư
– cũng kéo nhau bỏ ra khỏi cửa. Phần còn lại của sàn giao dịch bắt
đầu một cuộc đình công tạm thời.
Một ngày nọ, Buffett đi bộ một vài khu phố đến American
Express để ăn trưa với Jim Robinson, CEO của họ. Ông nói: “Jim
này, tôi không nghĩ điều này là có thể, nhưng tôi vừa chi 900 triệu
đô la tiền thưởng cuối năm đấy!” Tuy nhiên, ông có cảm giác