của thị trường trong 5 năm trước đó – một cơn hạn hán dài nhất
trong lịch sử của Berkshire. Vụ đầu tư của ông vào Coca-Cola, từng
đạt giá trị 17,5 tỉ đô la, giờ chỉ còn 8,75 tỉ đô la. Sự quyết đoán của
ông khi không từ bỏ biên an toàn có nghĩa là Berkshire đang tích lũy
hàng tỉ đô la tiền vốn chưa sử dụng, hiện nằm trong các loại trái
phiếu có mức sinh lời thấp. Buffett hiểu rõ các bộ phận cốt lõi của
một chiếc máy tính, nhưng ông không hề có ý mua một cổ phiếu
nào của các công ty công nghệ, dù ở bất cứ giá nào. Ông nói: “Nói
về Microsoft và Intel, tôi không biết thế giới này rồi sẽ ra sao
sau 10 năm nữa. Và tôi cũng không muốn tham gia vào một ván
bài mà những người khác đang nắm lợi thế… Ngành phần mềm
không nằm trong vòng tròn năng lực
của tôi… Chúng tôi biết
Dilly Bars
nhưng không biết gì về phần mềm.”
Vào tháng Hai năm 2000, Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái Hoa
Kỳ (SEC – US Securities and Exchange Commission) bác yêu cầu
của Berkshire Hathaway về việc cho phép họ được giữ bí mật thông
tin về một số cổ đông của họ. SEC cân nhắc thận trọng các quyền
lợi khác nhau của các nhà đầu tư trong một thị trường ổn định trước
quyền được biết thông tin và đưa ra các qui tắc bảo vệ quyền
được biết thông tin của các nhà đầu tư. Thay vì tích cóp một lượng
cổ phiếu khổng lồ như đã từng làm đối với American Express hay
Coca-Cola, ông chỉ có đủ thời gian để gom vội một số cổ phiếu
trước khi người khác giẫm lên đuôi áo ông. Mặc dù ông sẽ tiếp tục
chống lại phán quyết đó, nhưng SEC đã biến ông thành Ben
Graham, người mở tất cả các sổ sách của mình cho cả thế giới nhìn
vào. Từ lúc này trở đi, việc mua lại toàn bộ các công ty khác – vốn
luôn luôn là cách ưa thích của Buffett trong việc sử dụng vốn đầu tư
– sẽ là cách sử dụng tiền bạc chủ yếu tại Berkshire. Có nghĩa là việc
bỏ ra những khoản tiền lớn vào cổ phiếu sẽ được cân nhắc kỹ
lưỡng hơn nữa. Điều đó thật nhức nhối trong một thời đại mà các