vôi. Ngoài ra họ còn lưu tâm đến chế ra thứ vôi ăn trầu rất tinh vi như: sau
khi đốt một lò vôi xong, khi ra lò họ sơ qua những sò trắng vứt riêng lại
một bên, còn bao nhiêu thứ sò ngũ sắc đã bị đốt đến nhiệt độ đúng mức thì
đống hàu ấy tự rệu thành ra thứ vôi bột để xây cất. còn thứ sò trắng đã cất
riêng kia thì lại được sàng dần. Sau đó còn phải vứt hết sỏi cát, rác rến, dơ
bẩn. Xong xuôi còn phải đưa vào lò dốt lại một lần nữa chỉ còn lại dưới
"dần" lần cuối cùng là thứ bột mềm dẻo mịn màng. Nếu lấy dao ăn trầu mà
cắt thì không còn có thể nghe có một hạt cát nào trong bánh vôi. Như thế
mới gọi được là vôi chợ Quán, chợ Cầu.
Thời xưa đi mua vôi ăn trầu là cả một vấn đề xê dịch đáng ngại, phải
qua năm sông bảy đò. Đôi khi qua đò, lại nên duyên nên nợ cho mấy o đi
mua vôi ăn trầu. Bởi thế nên có hai câu hò sau:
Không đi thì nhớ thì thương,
Đi rồi lại nhớ Thanh Lương, chợ Cầu!
Không đi thì thảm thì sầu,
Đi rồi lại nhớ chợ Cầu, Thanh Lương!...