Chương 16 Nghệ thuật sống
Stanford, thời kỳ vàng của khoa học nhân văn diễn ra vào những năm
1960, khi hơn 1/3 số sinh viên lựa chọn chuyên ngành khoa học
nhân văn. Đến năm 2011, tỷ lệ giảm xuống còn 17%, khoảng một
nửa so với trước.
1
Vào thời điểm đó, các giảng viên nhân văn
chứng kiến nguy cơ cận kề của một sự kiện đau buồn nhất: Lịch sử
và tiếng Anh ở vị trí sẵn sàng bị loại ra khỏi danh sách 10 chuyên
ngành hàng đầu, đánh dấu việc lần đầu tiên trong lịch sử của
trường, không môn học nhân văn truyền thống nào nằm trong danh
sách đó.
2
Ở cấp khoa, các giảng viên cố gắng tìm cách thu hút sự quan tâm
của sinh viên. Khoa lịch sử mở một ngành mới, Lịch sử Thế giới &
Quan hệ Quốc tế, cung cấp một loạt các khóa học hữu ích cho
những sinh viên có kế hoạch về sự nghiệp trong các tổ chức kinh
doanh, chính phủ và phi chính phủ. Một tổ tổng hợp tại Stanford
giảng dạy một số ngôn ngữ châu Âu, Mỹ Latinh
3
và văn chương so
sánh – Tổ Văn chương, Văn hóa và Ngôn ngữ – cung cấp khoản tài
trợ nghiên cứu để thu hút sinh viên. Nỗi tuyệt vọng lớn đến mức lời
đề nghị được mở rộng đến cả những sinh viên chỉ đơn thuần chọn
ngành phụ ở các khoa này.
4
Philippe Buc, giáo sư lịch sử, đã công khai hỏi, Stanford muốn trở
thành “viện Công nghệ California phương Bắc” hay giống “các đồng
nghiệp ở Bờ Đông” như Harvard, Yale và Princeton, nơi có đông
đảo sinh viên chuyên ngành khoa học nhân văn. Trong một tham
luận trên tờ Stanford Daily phát hành năm 2011, Buc viết, các khoa
khoa học nhân văn của Stanford “nên ngừng sầu thảm trước lượng
đăng ký giảm” và hãy thôi kích thích tăng số sinh viên bằng các
mánh lới quảng cáo vô nghĩa. Điều quan trọng, theo ông, là có
nhiều sinh viên yêu thích ngành khoa học nhân văn đến Stanford.