nền giáo dục thực tiễn của trường, chứ không phải lý thuyết, mới là
điều quan trọng nhất.
27
Khi soạn thảo điều khoản Tài trợ của Nhà sáng lập, Leland Stanford
đã chọn ngành nông nghiệp làm lĩnh vực chứng minh cho nền giáo
dục thực tiễn mà ông nghĩ đến; tới năm 1893, trường triển khai các
kế hoạch về khoa nông nghiệp mà ban đầu bị tạm hoãn.
28
Đến
tháng 6 năm 1893, Leland Stanford qua đời và trường phải đề ra
những cảnh báo về tài chính. Món quà trị giá 20 triệu đô la, bao gồm
hầu hết các bất động sản tính cả đất xây trường, được bảo quản
trong một khoản trợ cấp vốn. Leland Stanford đã vay 2 triệu đô để
mở trường, một khoản nợ mà ông dự kiến sẽ trả khi nhận được cổ
phần 3 triệu đô của mình trong khoản thu chưa phân phối từ Đường
sắt Nam Thái Bình Dương. Nhưng khoản thanh toán không hề xuất
hiện.
29
Sau khi Stanford qua đời, tài sản của ông mắc kẹt vì vấn đề chứng
thực di chúc, nên nguồn thu mà trường đại học trông đợi bị mất đứt.
Trường k hông có khả năng thanh toán các khoản chi phí và tiền
lương giảng viên bị giảm 10%. Sinh viên phải trả phí đăng ký mới là
20 đô/năm. Mặc dù vậy, trường vẫn mở cửa vì Jane Stanford đã
dùng khoản trợ cấp gia đình 10.000 đô/ tháng mà tòa án trao cho bà
để trang trải chi phí của trường. Cuộc khủng hoảng không giảm bớt
suốt 3 năm
30
và cũng không được giải quyết triệt để trong 6 năm.
31
David Starr Jordan nảy ra ý tưởng riêng về cách triển khai một nền
giáo dục thực tiễn bậc đại học. Một trong những sáng kiến của ông
đã được đưa ra khi trường mở cửa: Giảng dạy luật cho sinh viên đại
học, nhưng không phải thay thế cho hoạt động nghiên cứu sau đại
học mà nhằm giúp sinh viên nhập môn lĩnh vực này.
32
Một cải cách
nữa mà ông theo đuổi nhưng không được thông qua, đó là tập trung
vào “hoạt động kỹ thuật và chuyên môn” cũng như nghiên
cứu.
33
Ông còn đề xuất loại bỏ tất cả các môn đại cương và yêu cầu
tất cả sinh viên hoàn thành 2 năm đại học tại viện đại học khác
trước khi gia nhập Stanford.
34