trị viên Trần Ngọc Ẩn chỉ huy, xuất phát. Dịp này đang thời kỳ gió mùa
Đông Bắc. Những con sóng chồm cao và gió thổi hun hút. Con tàu chao lắc
như đưa võng. Nhiều ngày chống chọi với sóng gió, thủy thù, dù đã đi biển
nhiều chuyến, vẫn nôn ra mật xanh mật vàng. Ai cũng mệt. Ngày thứ ba,
tàu chạy chậm lại để thay biển số và căng lưới lên như một tàu đánh cá
đang hành trình. Sóng vẫn không giảm. Khó khăn lúc này là cái ăn cho thủy
thủ. Ăn lương khô mấy ngày liền, xót ruột, ai cũng thèm cơm. Nhưng nấu
cơm không dễ. Tàu lắc lư, đổ nước vào nồi, nước lại trào ra. Thuyền trưởng
Nguyễn Văn Cứng là người không say, nên vừa chỉ huy, vừa đảm nhận vai
nấu cơm. Phải mất 4 tiếng đồng hồ cơm mới chín. Nhưng ăn vào, lại trả về
biển nuôi cá hết…
Ngày thứ 4, sóng giảm dần. Thuyền trưởng cho tàu vòng ra Song Tử Tây,
rồi qua Song Tử Đông (hai đảo này thuộc quần đảo Trường sa - ĐK). Ngày
19, chúng tôi phát hiện một máy bay bay ngang tàu. Những ngày kế đó, vài
ba giờ lại có một máy bay đảo qua. Tàu chiến địch cũng lượn lờ thường
xuyên.
Về phía nam, biển yên dần. Ngày 20 tháng 10, thấy không có động tĩnh gì,
thuyền trưởng truyền lệnh chuyển hướng vào bờ. Đêm đó, chúng tôi phát
hiện ra đèn Hòn Khoai, vậy là tăng tốc độ, chạy vào. Nhưng cách bờ không
bao xa, xung quanh chúng tôi có nhiều ánh đèn, nghi là tàu địch, nếu vào
bến sẽ không an toàn, nên lại phải vòng trở ra vùng biển quốc tế. Chúng tôi
đi về phía đảo Nationa (Bắc Phi lippin). Lòng vong “câu cá” bốn ngày ở đó
để tránh sự theo dõi của địch… Hôm sau, ngày 24 tháng 10, tình hình yên
trở lại, thuyền trưởng ra lệnh cho tàu đi về phía biển Việt Nam.
Qua Hòn Khoai, chúng tôi tiến thẳng vào bờ. Khuya khuya, khi tới Vàm, từ
một lùm cây trước mặt, có chiếc thuyền nhỏ chạy tới. Ánh đèn pin lóe lên,
chúng tôi nhận ra ám hiệu của bến, vội đáp lại. Thuyền trưởng cúi sát
xuống, gọi lớn: “Anh Ba cụt phải không?”. Có tiếng hỏi lại “Bảy Cửng ha?
Sao trễ vậy cha?”. Theo chiếc thuyền vừa ra đón, chúng tôi đi vào “bến”.
Bảy ngày sau, chúng tôi trở lại miền Bắc. Ngày 5 tháng 11 năm 1965, tàu
về Đồ Sơn. Sau chuyến đi ấy, tàu 42 được Nhà nước thưởng huân chương
Quân công hạng Ba, và Bác Hồ tặng cho mỗi thủy thủ một bao thuốc lá…
Chuyện ấy tôi cứ nhớ mãi.