Chưa có chuyến đi nào gặp sóng dữ như chuyến đi đó. Hết gió mùa đông
bắc, là bão. Biển cộn lên. Thủy thủ đều say. Cứng sóng như máy trưởng
Phan Nhạn cũng bị ói. Ba ngày liền phải ăn lương khô, uống nước lã. Sóng
vật, tầu lắc, không sao bật lửa nhóm bếp...
Hai ba giờ ngày hai bẩy tháng mười một (27-11) chúng tôi vào được bến.
Chạy tới chạy lui, từ cửa Mỹ Á đến Phổ An, vẫn không có người ra đón.
Thời gian chẳng còn nhiều, chúng tôi quyết định thả hàng, đồng thời cử
người vào bờ bắt liên lạc. Thuyền phó Dương Văn Lộc và thủy thủ Trần
Nhợ xung phong đảm nhận công việc đó.
Bốn giờ sáng, thả được hai phần ba lượng hàng thì phát hiện ra phía ngoài,
hai khu trục tới ém, chắn lối ra. Tôi cho ngừng công việc, đóng nắp hầm,
chuẩn bị cơ động ra khỏi vị trí thả hàng... Vừa lúc, một đợt sóng ào tới,
dềnh tàu lên, rồi đột ngột thả xuống. Tàu 41 rùng mạnh, khựng lại. Tôi ấn
tay chuông, phát tín hiệu tiến hai, rồi tiến ba. Tầu gầm to, nhưng bất động.
Máy trưởng Phan Nhạn thông báo: “chân vịt hỏng, không cơ động được”.
Vậy là điều đáng lo chúng tôi có lường trước, đã đến. Trời gần sáng. Phía
ngoài, tầu chiến Mỹ nháy đèn phát tín hiệu liên tục... Chi uỷ hội ý, quyết
định: nhằm giữ bí mật vị trí thả hàng và không để tàu rơi vào tay giặc, huỷ
tàu. Sau khi anh em đã lên bờ, tôi và máy trưởng Phan Nhạn huỷ tài liệu,
định giờ ngòi nổ ba mươi phút, rồi bơi vào bờ. Tôi nghĩ thời gian đó đủ để
bơi xa tàu. Một con sóng hất tôi lên bãi cát. Tôi quay nhìn lại, con tàu vẫn
như một tảng đá, đen trũi, trơ trơ trên mặt nước, cứ dập dềnh. Đầu tôi căng
ra, muốn vỡ. Vừa lúc, hai bóng đen lao ra mép nước, đó là thuyền phó
Dương Văn Lộc và thủy thủ trưởng Trần Nhợ. Hai anh lo tàu không nổ, sẽ
rơi vào tay địch, nên đã bơi ra điểm hoả...Và, trời ơi, vừa lúc đó, nơi tàu 41,
một khối lửa bùng lên. Tôi hoảng loạn nhào ra, gào gọi tên hai anh, nhưng
tiếng tôi đã bị lấp chìm giữa ào ạt sóng và gió... Lúc đó là 4 giờ 30 phút
ngày hai tám tháng mười một năm sáu sáu (28-11-1966).
Anh Thạnh kể tiếp:
- Anh Trần Nhợ quê Cát Khánh, Phù Cát, Bình Định, là thủy thủ trưởng.
Anh từ đoàn đánh cá Hạ Long chuyển về làm lính Hải quân. Anh lành như
đất. Ít nói. Khi cánh thủy thủ tụm năm tụm ba trên boong chuyện trò, anh
thường sán lại lắng nghe. Không bàn góp, chỉ gật gù. Khuôn miệng như thể
lúc nào cũng tủm tỉm cười. Anh Dương Văn Lộc sinh năm một chín mười