suối vàng chắc cũng mát mẻ... Cái tình của đơn vị như vậy, tôi nghĩ rất đáng
quý...
... Chơi và trò chuyện với thuyền trưởng Vũ Tấn Ích một buổi, hôm sau, tôi
rủ thêm Trần Tiền Vệ, cùng xuôi xuống Quảng Ngãi. Trước đây, ấn tượng
trong tôi về Quảng Ngãi là vùng đất bạc màu, xơ xác cát trắng, nắng và gió.
Một khúc thắt hình như chỉ nhằm nối phía Nam và phía Bắc, là chốn để qua
chứ không phải là nơi dừng lại... “Ga gà!” - Tiếng gọi vui mà như thể có cái
gì thắt thẻo, ngậm ngùi.
Miền đất nghèo, phải chăng cái ấn tượng cố hữu đó cứ dai dẳng bám giữ
nên đã khiến tôi phải ngạc nhiên? Ô tô qua vùng no nắng Núi Thành
(Quảng Nam), tôi ngỡ ngàng bắt gặp một màu xanh. Một màu xanh trải
rộng, dịu mát. Dịu mát đến bâng khuâng. Đó là những thảm lúa tiếp nối của
Bình Sơn. Và màu xanh no đầy ấy cứ hiển hiện qua cửa sổ xe... Đã không
còn nữa một Quảng Ngãi cằn khô hoang hoá trong tiềm thức. Đường vào
khu công nghiệp Dung Quất rộng thênh. Hối hả xe to, xe nhỏ, xe chở vật
liệu... Quảng Ngãi và Dung Quất giống cô gái nơi miền cổ tích bao năm ẩn
trong cái vỏ xác xơ bỗng vươn mình trở dậy, rũ lốt cũ, mơn mởn xuân.
Chạm cầu Trà Khúc, chúng tôi rẽ xuống phía biển, tìm cửa Sa Kỳ, tìm về
Ba Làng An. Ba-Làng-An là tên gọi chung ba làng đều có chữ An đứng
đầu, An Hải, An Kỳ, An Vĩnh, thuộc xã Bình Châu. Đường đi quanh co.
Lúc biển bên phải, lúc hiện ra bên trái. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được
người cần tìm. Ông Nguyễn Tương năm ấy đã 83 tuổi, người gầy nhỏ. Ông
tiếp chúng tôi trong ngôi nhà lá giản dị như nhiều ngôi nhà của dân đi biển
vùng này. Khi tôi hỏi chuyện con tàu đã vào đây tháng 7 năm 1967, ông
Tương đáp:
- Nhớ chớ! Chuyến đó tôi đi đón mà. Cửa Sa Kỳ cạn, ngoắt nghoéo, tàu
không quen, vô dễ lạc...Khi biết tàu đang đánh nhau, tụi tôi toả đi tìm anh
em... Hôm sau thì gom được đủ... Rồi các ảnh lên khu, đi ra Bắc.
- Còn người thương binh? - Tôi hỏi.
- Chú ấy bị nặng lắm. Thuốc men dạo đó không có nhiều, nên chừng hết
trưa, chú tắt thở. Sau khi địch rút, tôi đưa về chôn cất tại Rẫy Lách thôn
Hai, cạnh nhà mình. Nhà tôi đông anh em, những tám người, nên tôi kêu