Chúng tôi cùng nhìn xuống. Lập lờ dưới mặt nước, những khối sắt han rỉ
nằm lặng phắc. Đây là mũi tàu hay khoang máy? Còn dấu tích nào của đồng
đội chúng tôi vẫn ẩn chìm dưới đó? Có cái gì cay cay nơi sống mũi, chúng
tôi bỏ mũ, lặng im… Lẫn trong tiếng sóng nhẫn nại dè dặt đập vào bờ đá,
chúng tôi nghe hình như có cả những hơi thở gấp gáp, những tiếng nói đứt
nối từ đâu vọng tới. Chiều tà, man mác, se lạnh…
Theo hướng dẫn của anh Lâm, chúng tôi men lên ngọn núi đá và không
mấy khó khăn để nhận ra đài chỉ huy của tàu 235 lút chìm giữa gai rậm, cỏ
lác. Sức công phá của khối thuốc nổ mạnh đến vậy sao? Chính trong
khoang thép này, đã nhiều lần Phan Vinh điều khiển con tàu luồn lách qua
đá ngầm, qua tuyến phòng thủ của địch chở vũ khí vào chiến trường và
cũng trong khoang máy này anh và đồng đội đã giật ngòi nổ để một cột lửa
bùng lên giữa biển khơi… Gần hai mươi lăm năm rồi mà những gì đập vào
mắt cứ khiến chúng tôi nao cả lòng. Xác tàu, một nửa văng lên đang rã nát
nằm chỏng chơ lưng chừng sườn núi Bà Nam này, một nửa biển ngậm dưới
kia, còn anh, anh nằm nơi nào, Phan Vinh?…
Chiếc máy trong tay Lê Đức Do run run. Tôi rõ đồng nghiệp của mình đang
xúc động. Hai mươi ba năm rồi mới có những thước phim về các anh, cũng
là quá muộn...!
Ngậm ngùi, chúng tôi chỉ biết cùng anh Lâm và bà con Ninh Vân thắp cho
các anh và con tàu một nén nhang....
Khi hương đã tàn, ngồi bên xác nửa con tàu, người chủ tịch xã kể:
- Thời đó, tôi mới tám tuổi, nhưng còn nhớ rõ. Sau khi tàu nổ, có hai người
bị dạt vào chân núi này. Một người trong họ đội mũ nồi, mặc áo bludông
giả da. Bọn địch tung quân lùng bắt ráo riết. Nhưng hai anh đánh trả dữ
lắm. Gần sáng, không nghe tiếng súng nổ nữa. Và khi bọn địch mò tới được
chỗ hai người, họ đã tắt thở. Hằn học, chúng tưới xăng vào và...châm lửa
đốt.
Anh Lâm lẳng lặng dẫn chúng tôi tới một phiến đá hơi lõm xuống cách mặt
nước chừng ba mươi mét. Thời gian không làm mất dấu tích tội ác kẻ thù.
Tảng đá vẫn còn đen vết cháy. Tôi bật hỏi chủ tịch xã Trà Thái Lâm: