đạm, từng trải như anh, thật an tâm… Năm 1971, 1972 là giai đoạn mà
công tác vượt biển vận chuyển vũ khí vào miền Nam hết sức gay go, hết
sức khó khăn. Địch ken dày tàu chiến, phong tỏa gắt gao… Tàu 645 của
chúng tôi nhổ neo hai lần, cả hai lần đều bị tàu của hạm đội 7 kèm chặt,
đành quay lại. Ngày 12 tháng 4 năm 1972, tàu được lệnh ra khơi lần thứ ba.
Ai ngờ chuyến đó là lần ra đi cuối cùng của anh Nguyễn Văn Hiệu…”
Tôi rõ chuyến ấy, nơi vùng biển Tây Nam, Nguyễn Văn Hiệu đã ở lại một
mình, hủy tàu và hi sinh. Lê Hà cùng toàn bộ thủy thủ bị bắt. Sau hiệp định
Paris, anh được thả. Đi hết trại an dưỡng này đến trại an dưỡng khác, cuối
cùng, năm 1975 Lê Hà giải ngũ về quê. Điều đáng buồn là anh “mất Đảng”.
Hỏi Bộ tư lệnh Hải quân, lại hỏi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Hỏi từ Trung
ương đến địa phương, hơn 25 năm vẫn bằn bặt, không ai trả lời. Mãi những
năm gần đây đảng tịch của anh mới được phục hồi.
- Không đảng viên không làm việc được cho Đảng sao?- Má Mười Vinh nói
rất vui - So với nhiều anh em không trở về, Lê Hà nhà này còn may mắn
hơn nhiều. Nhưng phải kêu. Kêu là cốt bảo vệ cái danh dự của mình.
Anh Lê Hà ngồi cạnh đó cũng cười:
- Thì bao năm nay không phải Đảng viên cũng vẫn làm việc cho Đảng đó
thôi. Bây giờ được công nhận lại là Đảng viên, cũng làm việc cho Đảng...
Trở lại đề tài cũ, tôi hỏi má Mười:
- Sau đó làm sao má trả hết nợ đã vay?
- Trả dần, trả mãi rồi cũng hết chớ. Phải mất hơn mười năm mới trả xong.
Cấu chỗ này, đắp chỗ kia, cóp nhóp mãi cũng xóa được. Bay hỏi tại sao
không ai trả tiền cho má. Tao lại hỏi bay: vậy xương máu anh em mình, ai
trả? Làm cách mạng kể chi hơn thiệt.
Tạm biệt má Mười, trên đường đi, tôi tự trách mình, sao không cố nán lại
để hỏi thêm vài điều. Thực tình thì chúng tôi đã mấy hiểu về má đâu! Má là
người góp phần khởi mở con đường vận chuyển chiến lược có một không
hai trong lịch sử ư? Dung dị quá!