cơ thể ông nằm trong quan tài, ngay trước khi người ta mang ông đến nơi
an nghỉ ở đền thờ nơi tang lễ được cữ hành – và sau đó chỉ trong những
khoảnh khắc ngắn ngủi nhất.”
Gương mặt vị học giả già tối sầm lại.
“Bây giờ khi ta nghĩ về điều đó,” Yorda nhấn mạnh, “thậm chí ta không
chắc ông ấy chết vì bệnh gì. Không ai nói với ta bất cứ điều gì về những
ngày cuối cùng của ông ấy. Thầy hẳn hiểu là điều này khiến ta cảm thấy cô
độc như thế nào vì là đứa con duy nhất của ông ấy. Ta muốn biết tất cả
những điều này, nhưng ta có thể hỏi ai? Thầy có biết bất cứ điều gì không,
thưa Thầy?”
Trong đôi tay mảnh khảnh của Yorda, những ngón tay khô quắt và tong
teo trở nên lạnh lẽo. Chỗ những nếp nhăn trên gương mặt ông thường kể
một câu chuyện chi tiết như bất cứ cuốn sách truyện nào, bây giờ chúng
trống rỗng và vô hồn. Đôi mắt ông đã mất đi sự lấp lánh của chúng. Những
năm tháng qua đi đã cướp lấy tuổi trẻ của ông, tuy nhiên bây giờ thậm chí
ông còn thiếu đi chủ nghĩa khắc kỷ hà khắc đến cùng với tuổi tác. Ông có
lẽ là một mẩu gỗ bị mặt trời tẩy trắng, trôi dạt trên biển.
“Công chúa,” ông nói bằng giọng nghiêm nghị ông thường để dành cho
các bài giảng. Điều biến mất là dòng nhiệt huyết ông có khi ông nói về
những cuốn sách. “Các thành viên của gia đình hoàng gia phải cố gắng giữ
bản thân không liên quan đến sự vấy bẩn của chái chết mọi lúc – ngay cả
khi nó rơi vào trong chính gia đình của họ. Sẽ không thích hợp cho người,
là công chúa, biết những chi tiết về sự qua đời của cha người.”
“Ý thầy muốn nói, thưa Thầy, là ta không thể biết và không thể hỏi về
điều đó ư?”
“Người không thể.” Những lời đó đánh vào Yorda như một cái tát.
“Thậm chí người không nên nghĩ về những điều như thế. Tiểu thư Yorda,
hãy suy xét vị trí của người. Hãy nhớ rằng một ngày nào đó người sẽ ngồi
trên ngai vàng. Nếu nguyên tắc của người là rộng lượng, trái tim người phải
thuần khiết.”