cả ngày và đêm. Phụ nữ phải làm sạch cả làng bằng nước và muối, và hoạt
động mỗi khung cửi chúng ta có. Trẻ em, khi mặt trời vẫn còn trên bầu trời,
các cháu phải hát những bài ca hội hè. Những ai có thể chơi nhạc cụ, mang
chúng đến và chơi. Khi mặt trời lặn và cổng làng đóng, tất cả phải ở bên
trong, ngoại trừ những người canh gác, và không ai được gây ra một tiếng
động. Để cơ thể mọi người nghỉ ngơi và ngủ với đôi tay nắm chặt, điều đó
mọi người có thể ngăn chặn lối vào những cơn ác mộng đêm. Khi bình
minh lên, chúng ta sẽ làm lại vào hôm sau những gì chúng ta đã làm hôm
nay. Ba ngày tiếp theo này là quan trọng nhất.”
Dân làng nhìn trưởng lão hoang mang. Những chỉ thị của ông về việc
hoạt động tất cả những khung cửi bay thẳng vào mặt của mệnh lệnh trước
của ông rằng chỉ duy nhất khung cửi trong phòng dệt có thể được dùng
trong suốt Thời điểm Hiến tế. Một số người tự hỏi liệu ông ấy có phát điên
không – nhưng trưởng lão không cho phép thảo thuận.
“Ta cần mọi người thực hiện những mệnh lệnh mới này, và thực hiện
chúng thật tốt. Vào buổi sáng của ngày thứ tư, chúng ta sẽ bắn lửa hiệu và
gọi thầy tu từ nhà nghỉ của ông ấy. Ông ta sẽ đến vào ngày hôm đó và đưa
Ico đi với ông ta tới Lâu đài trong Màn sương.”
“Nhưng, Trưởng lão, tại sao lửa canh gác thắp sáng quanh làng nếu
chúng ta đang không chuẩn chị cho chiến tranh? Điều gì đang xảy ra? Tại
sao phải làm những việc này mà không có lý do?”
“Có một lý do,” trưởng lão đáp lại kiên quyết. “Và đây là chiến tranh.”
Khi tất cả chỉ thị được đưa ra, trưởng lão rời đến phòng dệt. Không một
lời, ông cầm tay Oneh khỏi con suốt và xé nửa tấm Phù hiệu đã dệt từ
khung cửi, suýt nữa làm bà giật điếng người.
“Chồng này, ông đang làm gì đó?” bà kêu lên, gương mặt bà đỏ ửng lên.
“Điều này có nghĩa là gì?”
Trưởng lão đặt hai tay lên vai Oneh. “Khi kiến thức và lòng can đảm
từng bị chia tách giờ lại được ràng buộc với nhau, sau đó màn sương bị