thì là khuynh hướng phiến loạn và vô thần). Từ 1910 đến 1920, những đám
Do-Thái đầu tiên tự động phân công nhau để cầy cuốc và trồng trọt. Sự
phân công này được thực hiện qua hình thức phân phối nhân công thành
các cộng đồng tập sản (communautés collectivistes). Đặc tánh của các cộng
đồng này là sự bình đẳng tuyệt đối giữa tất cả các thành phần, ai có khả
năng gì thì cố gắng làm công việc nấy, không một ai lãnh tiền lương và
không có tư hữu tài sản đối với bất kỳ nguồn lợi hay phương tiện nào của
tập thể. Nguyên tắc căn bản được tập sản Kibboutz đề ra, và được sơn vẽ
lên khắp nơi, là : « Mỗi người đóng góp tùy theo khả năng, và ai cũng được
hưởng lợi tùy theo công lao của mình ».
Sau một thời gian hoạt động, công thức Kibboutz tỏ ra rất hữu hiệu
trong việc sản xuất, vì số lương thực đã đủ để cung ứng cho nhu cầu của
các xã viên, lại còn để dư cho những kẻ mới tới nữa. Tại Degania, rồi tại
Merhavia, các Kibboutzim đầu tiên đã hoàn toàn thành công, và người Do-
Thái cảm thấy rằng việc tập thể làm chủ đã tránh được cho họ tất cả những
thói hư tật xấu mà các nước tư sản đang đầy rẫy. Đặc biệt nhứt là con người
đối với con người không còn là lang sói nữa, mà họ đã biết thương yêu
nhau, đồng lao cộng khổ với nhau để không còn có kẻ thừa thãi quá nhiều
trong khi hàng đoàn người khác không có lấy miếng cơm manh áo. Tới
tháng giêng 1964 thì số Kibboutz tại vùng đất thuộc Do-Thái lên tới con số
230.
Lề lối căn bản về hoạt động và điều hành của đơn vị Kibboutz là một
lề lối nhân dân.
Đó là một sự tập hợp hoàn toàn tự nguyện và tự do của cả nam lẫn nữ.
Họ làm việc theo sức sản xuất của họ, hiểu rằng nếu biếng nhác hay tắc
trách là tự mình sẽ chết đói, và cả tập thể sẽ chết đói. Mình không thể vờ
vĩnh để cho người khác làm tận lực, vì như vậy là một sự ăn cắp công lao
của đồng bào, một sự có tội rất nặng với lương tâm và tổ quốc. Thoạt đầu,
đám người tự ý hợp quần này đổ tất cả công sức ra để canh tác, trồng trọt,
những dụng cụ và phương tiện cần mua sắm thì đã có Quỹ Quốc gia Do-
Thái cho vay.