người lãnh đạo tinh thần của dân Do-Thái thời đó cũng đành bó tay bất lực
trước các trào lưu xuống dốc đó của đức tin Do-Thái.
Văn hóa của dân Do-Thái, trong các thế kỷ này, đã chứng tỏ rõ rệt một
sự lệch lạc, do tình trạng tù túng và khép kín gây ra. Người Do-Thái coi rẻ
những nền văn hóa của các dân tộc khác, mà họ cho là ngoại đạo, thiếu sự
soi sáng của Thiên chúa. Do đó, họ chẳng muốn đọc sách gì ngoài những
ấn phẩm của chính họ, và từ chối mọi sự tìm tòi và học hỏi, khám phá. Họ
tiếp tục xử dụng tiếng Hébreu, từ chối việc viết các thứ chữ của các nước
nơi họ sanh sống. Những đứa trẻ Do-Thái thời đó khi bắt đầu đi học, cho
tới khi lớn, cũng chỉ đọc toàn những kinh sách của đạo, và chúng không
cảm thấy sự cần thiết phải đọc các loại ấn phẩm khác.
Từ các Ghetto tới sự tái xâm nhập vào xã hội
Tuy nhiên, nếu hầu hết dân Do-Thái từ thế kỷ 15 tới 18, đều sống như
vậy, thì cũng đã may mắn cho dân tộc Do-Thái là có được một vài nhóm
nhỏ, gồm hơn một ngàn người, vượt ra khỏi tình trạng tù túng và tự mãn
trên đây. Đó là đám người Do-Thái sống tại Anh-cát-lợi. Khởi sự từ thế kỷ
17, có một tập thể Do-Thái di cư tới nước Anh, được sống khá tự do tại
đây, và hòa mình với dân bản xứ. Cùng thời đó, một nhóm Do-Thái khác
lẻn vào vùng Bordeaux và Avignon của Pháp, trà trộn với dân chúng, và
sanh sống một cuộc đời ngoài khuôn khổ của các trại Ghetto.
Thế kỷ thứ 18 là một khúc quẹo cực kỳ quan trọng đối với dân tộc Do-
Thái. Sau nhiều thế kỷ im lìm, bị bó buộc phải thu mình lại để tồn tại, từ
thế kỷ 18 trở đi, dân Do-Thái đột nhiên quật khởi dậy.
Một sự tin tưởng mãnh liệt ở sứ mạng thiêng liêng đột nhiên bột phát
trong đám dân Do-Thái tại Đông-Âu. Một số người khác thoát ra khỏi các
Ghetto tại Đức và len lỏi vào các đại học. Những cánh cửa của các trại
Ghetto hé mở dần, và một luồng gió mới đánh thức tất cả người Do-Thái
tỉnh giấc. Sự giao thiệp giữa dân Do-Thái và các dân bản xứ được thiết lập