dần dần và trở nên rộng rãi, chặt chẽ. Cuộc cách mạng Pháp 1789 đã mang
lại cho dân Do-Thái một sự giải phóng tinh thần rất lớn lao, khi Quốc hội
Lập Hiến Cách mạng của nhơn dân Pháp công nhận cho người Do-Thái
được có quốc tịch như những công dân khác và được hoàn toàn bình đẳng
trước pháp luật với dân Pháp. Năm 1789 và 1791 là những năm cực kỳ
quan trọng, đối với dân tộc Do-Thái vậy.
Tới thế kỷ 18, thì kể như cuộc sống gò bó và tù túng, tự thu mình
trong những Ghetto của dân Do-Thái chấm dứt. Đành rằng vẫn còn một
nhóm nhỏ, không muốn rời bỏ các trại mà họ đã tạo dựng, nhưng hầu hết
đều đi ra ngoài xã hội, sống lẫn lộn với các dân khác. Tại Pháp, tại Thổ, tại
Hòa-lan, người Do-Thái làm quen với những người địa phương ngày càng
nhiều. Thay vì coi rẻ nền văn hóa ngoại đạo, dân Do-Thái khởi sự học hỏi
và khám phá ra rất nhiều điều bổ ích cho kiến thức của họ. Nhiều cuộc đối
thoại và bút chiến xảy ra, giữa những triết gia, nhà văn, nhà báo ngoài đời
với dân có đạo Do-Thái, khiến cho các nhà lãnh đạo tinh thần của Do-Thái
phải ra mặt trả lời và cố gắng bào chữa cho nền văn hóa và đức tin của họ.
Dần dần, các nhà thần học, các nhà triết học Tây phương, nhứt là tại
Pháp, cũng khám phá ra những nét rất đáng mến phục của nền văn hóa Do-
Thái. Một tu sĩ Pháp nổi tiếng thời đó, thuộc dòng Oratoriens, là Richard
Simon, đã hợp tác với các tu sĩ Do-Thái, để xây dựng tác phẩm rất quan
trọng về đạo Thiên chúa, là sự phối hợp giữa Cựu ước và Tân ước. Simon
sau này trở nên một trong những người đã binh vực tận tình người Do-Thái
tại Pháp.
Tại Hòa-lan, một lý thuyết gia của Tin Lành rất được kính nể, là
Surenhuys, sau khi dịch những đoạn thánh kinh của Do-Thái, đã có viết
rằng : « Tất cả những ai muốn trở thành tín đồ trung thành và xứng đáng
của Chúa Giêsu, thì khởi sự phải học hỏi kinh sách của Do-Thái trước đã.
Vì người ta chỉ có thể trở thành tông đồ của Chúa Kitô sau khi đã là môn đệ
của Maisen. »