rồi!” Bà Martha cuộn ngón tay vào trong cái tạp dề, vô tình tạo nên
một cây cầu vải nhỏ nối giữa cái bàn và cái túi.
Tôi dễ dàng bò vào bên trong và tìm thấy cây rìu của mình chỏng
chơ ở một góc. Ha! Tôi giắt cây rìu vào sợi thừng cột quanh eo và
trượt từ chiếc váy của bà xuống đôi giày vĩ đại. Tôi lôi cây rìu ra, rất
cẩn thận và chậm rãi luồn lưỡi rìu vào những sợi chỉ khâu giày, lấy hết
sức bình sinh cưa cưa cắt cắt vị trí giữa lớp da và phần đế gỗ. Việc xử
lý những mối chỉ rất khó khăn, giống như phải cứa đứt những sợi dây
thừng rất dày vậy. Đôi lúc bà lại nhịp nhịp các ngón chân, khiến tôi cứ
phải ngồi đó mà nhún nhảy cho đến khi bà dừng lại, nhưng cuối cùng
tôi cũng cắt đứt được một cơ số các mối chỉ, và khi tôi xong việc, chỗ
đầu ngón chân đã hiện ra một lỗ hở to tướng. Đủ to để bà đầu bếp phải
viện đến ai đó sửa lại. Một ông thợ giày.
Tôi giắt chiếc rìu trở lại thắt lưng và trèo lên chiếc váy và tạp dề của
bà Martha. Bà bếp vẫn đang vừa thao thao bất tuyệt vừa thái cà-rốt, và
có vẻ như không ai nhận ra sự mất tích của tôi, kể cả Tom. Nó vẫn
đang mải miết đi trốn. Tôi mỉm cười, lấy làm mừng rằng bấy nhiêu
năm gây rắc rối của mình cuối cùng cũng phát huy tác dụng. Không rõ
mẹ có tự hào không?
Sau khi thái xong đầu các củ cà-rốt, bà Martha đứng dậy phủi tay.
“Được rồi, hỡi các bạn tí hon của tôi. Đã đến lúc chuẩn bị món súp.
Chúng ta phải... Ối!” Bà vấp ngã bổ chửng về đằng trước. Bà đụng
phải một cái bát khổng lồ đựng cà-rốt tí hon và bám vào rìa bàn. Một
tá người tí hon chạy về phía chỗ cà-rốt bị đổ và bắt đầu nhặt lại chúng
vào bên trong.
“Ối giời ơi phiền quá đi mất! Hình như tôi vừa làm thủng giày rồi!”
Bà tuột giày và đặt nó lên mặt bàn, phơi ra cái lỗ hở hoác nơi ngón
chân. “Không ổn rồi.”
Trong lúc những người tí hon khác bận rộn với việc thu gom đống
cà-rốt, tôi lẻn vào bên trong chiếc giày.