đài mà bước tới, nhìn theo những cánh cửa sổ sáng đèn của tòa tháp
như những ngôi sao dẫn đường.
Thình lình Annabella thét lên. Tôi dáo dác, trông đợi sẽ nhìn thấy
một con quái vật đáng sợ nào đó, nhưng chẳng có gì. Annabella chỉ
đứng yên một chỗ và sửng sốt, và lại nhỏ nước ròng ròng như thể có ai
đó vừa tưới nguyên một xô đầy nước lên đầu nó. Một xô nước khác
dội thẳng vào chân tôi, hai bên thân mình tôi rồi khắp cả người tôi. Đó
là một cơn mưa khổng lồ. Mỗi giọt nước mưa lớn ngang với một bình
nước. Chỉ trong vòng ba mươi giây đồng hồ, mặt đất dưới chân chúng
tôi đã biến thành một dòng sông đầy bùn và bắt đầu lở dần xuống chân
đồi.
“Anh Jack! Em không thể giữ được nữa!”
Tôi chụp lấy cánh tay Annabella và kéo nó lên, chân ghim chặt
xuống bùn. Những tia chớp lóe lên trên bầu trời, soi sáng rực sườn đồi
bằng một thứ ánh sáng trắng.
“Đi tới cái cây đổ kia nhé,” tôi nói. “Chúng ta có thể trú mưa dưới
đám cành. Mày cố được không?”
Annabella gật đầu, và chúng tôi dò dẫm bước thấp bước cao trong
bùn, cố gắng hết sức có thể. Khi chúng tôi đến chỗ cái cây, Annabella
thụp xuống bên dưới một cành cây. Tôi dò dẫm tìm kiếm một lỗ mở,
nhưng cái cây này vẻ như không rỗng ruột.
“Jack! Em tìm thấy thứ gì đó!” Annabella kêu lên.
Tôi quay về phía Annabella. Giữa những cành cây trơ trụi, con bé
tìm được một cái tổ được đan bện rất khít từ cỏ và cành nhánh, tạo nên
một nơi ẩn náu nhỏ hình tròn. “Trống trơn,” con bé nói.
“Mày chắc không?”, tôi hỏi. “Nếu nó thuộc về một con chuột hay
chim khổng lồ thì sao?”
“Nó hẳn đã bị bỏ hoang từ khi cái cây đổ xuống. Con vật có lẽ đã
tìm được chỗ trú ẩn tốt hơn rồi.”
Cơn mưa càng thêm nặng hạt, và Annabella run lẩy bẩy. Nếu không
được hong khô sớm, con bé sẽ bị cảm lạnh. Tôi vác cây rìu lên vai,