túm khác nữa. Cứ thế tôi cũng lên được cổ nó, nơi Rufus không thể
nhìn, cũng không thể cắn chúng tôi. Vạn vật vẫn xoay mòng mòng
xung quanh, ruột gan phèo phổi của tôi rối beng vào nhau như rễ cây
vậy.
“Tuyệt cú mèo!” Tom nói. “Có thích không cậu? Có thấy giống như
được cưỡi trên một cơn lốc xoáy không?”
Tôi hít vào những hơi thật sâu. “Giống như bị một con mèo khổng
lồ đuổi theo khi tớ đang bám vào đuôi nó ấy.”
“Nom cậu xanh lè,” Tom nhận xét.
“Em nghĩ anh ấy sắp nôn rồi,” Annabella nói.
“Cố đừng có nôn ra bộ lông đấy,” Tom bảo. “Chúng ta không muốn
Rufus liếm lông trong khi vẫn đang ngồi trên đó đâu.”
“Tớ ổn mà,” tôi nói. “Chỉ đang cố điều hòa nhịp thở.”
Rufus kêu meo meo và đi loanh quanh vô hướng, như thể không
biết nên làm gì tiếp theo.
“Đi câu mèo nào,” Tom nói. “Cô bé hoa, quăng sợi dây đi!”
“Rõ, thưa ngài!” Annabella hô, rồi vung cây kim đan cùng sợi dây
thừng treo lơ lửng trước mặt Rufus. Rufus lao về phía trước, kéo theo
cả ba đứa tôi, tay vẫn bám chắc vào bộ lông.
Chúng tôi đi mãi, dọc theo các hành lang dài thăm thẳm. Mỗi khi
Rufus có dấu hiệu đi chậm lại, chúng tôi lại thu sợi thừng rồi ném nó
ra lần nữa, và Rufus lại đuổi theo nó như một con chuột - hoặc là tôi.
Khi cơn chóng mặt đã thuyên giảm, tôi buộc phải thừa nhận rằng
mèo là một phương tiện di chuyển tuyệt vời. Khoảnh khắc này đang
còn đứng yên bất động, chớp mắt một cái nó đã tăng tốc chạy. Nó
nhảy lên và tiếp đất đều nhẹ nhàng như ru, đến mức chúng tôi chẳng
hề cảm thấy sự nỗ lực nào trong đó. Cưỡi trên lưng mèo đích thực vừa
thú vị vừa khó đoán trước.
Không chỉ vậy, cưỡi mèo còn giúp chúng tôi có thể khám phá tòa
lâu đài một cách chi tiết nhất.