đâu cũng là lửa. Lửa bao vây khắp ba bề bốn bên. Tom ngồi co rúm,
đầu kẹp chặt giữa hai gối, đu đưa qua lại.
“Cẩn thận đấy,” một giọng nói cất lên. Tôi ngước lên nhìn thấy một
người đàn ông, không phải một gã khổng lồ. Ông ta có một bộ ria xám
xịt, gương mặt phủ đầy muội than và bồ hóng. Ông chộp lấy cổ áo của
tôi và Tom rồi kéo hai đứa khỏi những ngọn lửa. “Các cậu không
muốn bị cháy thành than đấy chứ?”
Tom chạy ngược trở lại cái bệ gỗ và cố gắng trèo lên một sợi dây
thừng, nhưng ngay khi chạm phải sợi dây cậu ta la lên oai oái. Sợi
thừng được gia cố đầy gai nhọn.
“Không thể trèo khỏi đây đâu, cậu bé,” người đàn ông nói. “Chẳng
có đường thoát nào hết.”
Chúng tôi đang ở trong một hầm ngục khổng lồ, rộng ngang ngửa
nhà bếp hoàng cung. Khi cú sốc dần lắng xuống, tôi nhận ra rằng ngọn
lửa chúng tôi vừa đáp xuống bên cạnh thực chất là những miệng lò
bên trong. Một người đàn ông khác đang dỡ một chiếc nồi khỏi một
trong mấy cái miệng lò. Ông ta rót một thứ chất lỏng óng ánh từ trong
nồi vào cái khay rộng nông lòng, sau đó nhúng cái nồi vào một thùng
nước. Một đám hơi trắng xóa phả lên, khiến ông ta biến mất mấy giây.
Ở giữa hầm ngục là một đống trứng vàng chất cao như núi. Mọi
người đang leo lên đỉnh nom như một đàn kiến bò trên một ngọn đồi
đường cát. Ai cũng cầm theo rìu hoặc đục, gõ gõ bổ bổ vào đám trứng
như những người thợ mỏ. Xung quanh núi trứng là một dãy lều lán ổ
chuột, được vá víu qua quýt tạm bợ với nhau bằng những tấm ván gãy,
cành khô và giẻ bẩn. Thật là một cảnh tượng ảm đạm.
“Bà Martha có ở đây không?” Tom hỏi. Nó hẳn vẫn nghĩ chúng tôi
đang ở trong một căn phòng phụ nào đó của nhà bếp. Thằng bé cứ
ngoái nhìn quanh quất như thể bà Martha có thể sà xuống bất kỳ lúc
nào và bón nó ăn pho-mát như một con chuột nhỏ.
“Khó có thể nói rằng ta biết,” người đàn ông nói. “Không có nhiều
phụ nữ ở dưới này.”