“Bố cháu ư?”
“Henry. Bố cháu vẫn bán lúa mì cho bác đấy.” Tôi những mong
rằng thông tin này có thể giúp khơi gợi trí nhớ của ông ta, nhưng ông
chỉ xoắn xoắn bộ ria thêm một lúc nữa, vẻ mặt ngơ ngẩn. “Henry...
anh ấy có thể ở đây, nhưng ta không rõ lắm. Chẳng có nhiều thời gian
thăm viếng ai ở cái nhà ngục tối tăm ảm đạm này. Tất cả những gì
chúng ta biết chỉ là lao lực, lao lực và lao lực. Ai quan tâm tới một
Henry, một Jack hay...”
“...hay một ông thợ bánh Baker, phải không ạ?” tôi hỏi.
“Đúng, đúng, chính xác. Ai quan tâm đâu. Chúng ta đều kẹt ở đây,
bị nướng chín như bánh mì.” Thợ bánh Baker đưa một cái nồi nấu
vàng vào trong cái lò ông từng dùng để nướng bánh mì. Bức tường
trước nhà ông đã bị phá tan, nên ông không cần phải đi vào bên trong.
Tôi đoán rằng dù sao thì ở chốn này, cũng chẳng còn khái niệm “bên
trong” hay “bên ngoài” nữa. Chỉ đơn giản là mắc kẹt.
Chúng tôi nghe thấy tiếng hô hào phía trên con đường và quay lại
nhìn.
“Đun chảy! Đun chảy! Đun chảy!”, ai đó ngân nga bằng giọng oang
oang. “Hãy giữ lò đỏ lửa, hỡi những anh bạn trẻ! Chặt! Chặt! Chặt vụn
những quả trứng đó ra! Tiếp tục tạo ra vàng đi! Hãy tiến lên, những
chiến binh! Chớ có làm chậm tiến độ! Chúng ta phải đẩy nhanh công
việc!”
Giữa tất cả mọi người, đó chính là ngài Bluberys. Bộ giáp sắt hen rỉ
của ông ta ám đen bồ hóng, và con la thì nhìn mệt mỏi và lưng võng
xuống hơn bao giờ hết. Ông ta đang lê bước dọc theo những lối mòn
đi qua khu cắm trại, hò hét mệnh lệnh và những lời động viên.
“Tốt lắm! Giờ nhanh hơn rồi đó. Thêm nhiên liệu vào đống lửa!”
Mọi người cau mày lúc ông ta đi qua.
“Lão ngốc!” Ông thợ bánh Baker lầm bầm. “Cứ nghĩ mình là Chúa
Ngục cơ đấy. Diễu qua diễu lại trên con la ngu xuẩn đó, chỉ đạo mọi