kẻ nào thì thật sâu sắc và không thể nào phục hồi được. Tên đốc công nhìn
ngỡ ngàng cứ như lần đầu tiên hắn mới nhìn thấy thằng bé đó, còn bộ mặt
của viên giám thị thì tỏ ra sửng sốt và khó chịu.
- Tôi biết thằng bé này, - viên thanh tra nói – Nó mới mười hai tuổi.
Trong một năm tôi đã ra lệnh đuổi nó ba lần ra khỏi ba nhà máy. Lần này là
lần thứ tư.
Ông ta quay lại phía cậu bé một chân:
- Mi đã hứa với ta, thề sống thề chết là mi phải đi học cơ mà.
Cậu bé òa lên khóc:
- Cháu xin ông thanh tra, hai đứa em cháu đã chết. Nhà cháu nghèo quá.
- Sao mày ho nghe lạ thế? – viên thanh tra hỏi cứ như kết tội nó.
Cậu bé chối phăng, nói:
- Không sao ạ. Cháu vừa bị cảm lạnh tuần trước, thưa ông thanh tra.
Không sao đâu ạ.
Cuối cùng, chú bé một chân bước ra khỏi phòng cùng viên thanh tra và
viên giám thị, mặt mày lo lắng và bất bình. Tiếp theo đó, công việc đơn
điệu lại lặp lại. Buổi sáng dài đằng đẵng, rồi đến buổi chiều dài hơn nữa
trôi qua, còi nhà máy rú lên báo hết giờ làm việc. Giôn đi qua cổng nhà
máy, ngoài trời đã tối. Đó đây còn tia nắng mặt trời như cái thang màu vàng
nối trái đất với bầu trời, tỏa khắp một hơi ấm dễ chịu, rồi lặn dần và biến
mất ở phía tây sau những nóc nhà nhô lên xơ xác nơi chân trời. Trong ngày,
bữa ăn tối là bữa ăn có đông đủ mọi người trong gia đình – một bữa ăn
Giôn có thể gặp các em của mình. Đối với cậu, điều đó có phần nào mang
tính chất gặp gỡ vì cậu đã quá già, còn các em mình lại còn quá trẻ. Cậu
không còn sự kiên nhẫn trước tính hoạt bát quá mức và đến kỳ lạ của