xô một thây ma xuống biển làm mồi cho đàn cá mập đang quẩn quanh
thuyền.
Qua được một tuần như thế, chúng tôi hết rượu. Cũng vừa hay, vì nếu
không, tôi đã chẳng sống đến nay. Phải tỉnh táo, một người mới có thể qua
được các biến cố tiếp theo đó, và các bạn sẽ đồng ý với tôi khi tôi nói là chỉ
có được hai người đã qua khỏi được cơn tai biến ấy. Người thứ hai là kẻ vô
thần - ít ra tôi cũng đã được nghe thuyền trưởng Oudouse mệnh danh hắn
như thế khi tôi mới chợt để ý đến hắn. Nhưng thôi, bây giờ tôi xin kể tiếp
câu chuyện đó đã.
Hôm đó là ngày cuối tuần, rượu uyt-ki đã cạn mà bọn buôn ngọc trai
chúng tôi đã tỉnh rượu. Tôi chợt nhìn lên chiếc phong vũ biểu treo ở lối đi
vào ca bin. Thường thường ở Panmotus nó chỉ 29’90; và vẫn lên xuống
giữa khoảng 20’85 và 30’00 hoặc 30’05. Nhưng hôm đó tôi thấy nó sụt
xuống tới 29’062. Điều đó đủ làm kẻ buôn hạt trai say sưa nhất đã giết vì
trùng đậu mùa bằng rượu uyt-ki phải tỉnh lại.
Tôi chỉ cho thuyền trưởng Oudouse coi, nhưng ông ta cho biết là vẫn
theo dõi nó sụt xuống từ mấy giờ đồng hồ rồi. Chẳng có thể làm gì để đối
phó với sự việc đó, nhưng thuyền trưởng đã cố gắng rất nhiều. Ông ta cho
gỡ các cánh buồm nhẹ, hạ nó thấp hẳn xuống thành những vải che bão,
căng giây cấp cứu, rồi đợi gió đến. Cái lỗi lầm của ông là việc đó ông đã thi
hành sau khi gió nổi lên. Ông cho thuyền ngừng lại khi buồm hạ xuống ở
phía trái, một biện pháp thích ứng khi thuyền ở phía dưới đường xích đạo
nếu - đây mới là điều rắc rối - nếu ta không ở vào hướng đi trực tiếp của
trận bão biển.
Nhưng chúng tôi lại đang ở ngay đúng hướng bão. Tôi biết thế vì nhận
thấy gió thổi dữ dội đều đều và chiếc phong vũ biểu cứ sụt xuống đều đều.
Tôi muốn bảo ông ta quay thuyền và cho nó chạy theo hướng gió chếch
một phần tư hông thuyền về bên tả, cho tới khi phong vũ biểu không còn
sụt xuống nữa mới dừng lại. Chúng tôi cãi nhau mãi làm ông ta nổi cơn