vẫn còn xuống thấp hơn nữa, mặc dù mấy tay thạo thời tiết cứ quả quyết là
chẳng có gì đáng sợ. Dầu sao, thấy nó tụt xuống nhiều quá tôi chẳng yên
lòng chút nào. Tôi bứt rứt thế nào ấy. Nó cũng tụt vùn vụt kiểu này hồi tụi
tôi mất chiếc “Lancaster”. Dạo ấy, tôi còn đang học nghề, nhưng tôi vẫn
nhớ chuyện ấy rành rọt. Tàu bọc sắt mới nguyên, bốn cột buồm mà mới đi
biển lần đầu tiên nó đắm làm lão thuyền trưởng đau buồn đến tuyệt vọng.
Lão làm việc cho hãng trước sau được bốn chục năm. Láo héo hon dần rồi
chết một năm sau đó.”
Mặc dầu có gió và trời còn sớm, hơi nóng thật ngột ngạt. Trong gió
thoang thoảng hơi mát nhưng gió chẳng quạt mát được ai. Giá không có hơi
ẩm nặng trĩu trong gió thì người ta đã tưởng nó từ sa mạc Sahara thổi về.
Lúc ấy không có sương mù hay sương mỏng hay một chút điềm nhỏ nào
báo hiệu có sương cả. Tuy nhiên, trạng thái mơ hồ của khoảng cách khiến
người ta có ấn tượng là có sương buông.
Trên trời không có mây bay thành đám rõ rệt, tuy thế, một màn mây u
ám giăng kín bầu trời dấy đến nỗi ánh mặt trời không sao chiếu lọt qua.
“Cho tàu quay mũi” thuyền trưởng Warfield ra lệnh, giọng chậm chạp
nhưng đanh thép.
Đám thuỷ thủ Kanaka, da bánh mật, ngang hông quàng sa-rông ngắn
chấm đầu gối, uể oải bắt tay vào việc nhưng cũng đủ nhanh để dương buồm
và cần mắc buồm.
“Cho nghiêng mạnh về hướng gió”.
Viên hoa tiêu xoay thêm mấy nấc, xem ra không có ý cho tàu lướt
chậm lại cho đỡ tròng trành. Chiếc Malahini lao mũi nghênh gió, rồi lượn
quanh.
“Ái chà, con tàu này hay quá đỗi,” Mulhall khen. “Ai ngờ bọn lái buôn
miền Nam-Hải các anh lại biết lái du thuyền chứ.”
“Nó vốn là tàu đánh cá xứ Gloucester đấy,” Grief giải thích “mà tàu bè
hạt Gloucester đều lắp buồm, lèo hệt như du thuyền vậy.”
“Anh đang cho nó chạy thẳng vào, vậy sao lại không vào nổi?” người
khách xứ Anh chỉ trích.
“Này thuyền trưởng Warfield, thử cố xem sao,” - Grief đề nghị. “Cho
hắn biết là cửa đầm mặn chảy xiết khó vào ra sao, nhất là khi nước triều rút