hòn ngọc quý giữa những củ cà rốt. Thế nhưng chúng nó phê phán anh ấy
ghê lắm đấy! Thật khốn khiếp cả bọn chúng nó, lũ ngu xuẩn!”
“Nhiều kẻ không biết viết lách gì đã viết quá nhiều về những người viết
thực sự,” Martin nói thêm vào. “Chà, tớ phát khiếp lên vì số lượng quá
nhiều của những bài rơm rác phê bình Stevenson và tác phẩm của ông.”
“Lũ quỉ, lũ hút máu,” Brissenden nói gay gắt giữa hai hàm răng nghiến
lại. “Đúng, tớ biết rõ lũ vô lại ấy. Chúng hùa nhau chỉ trích ông ta một cách
đắc ý về bức thư của ông viết gửi cho Damien, chúng phân tích, chúng đánh
giá ông.”
“Lấy thước đo của con người vô giá trị của chúng để đo ông ta,” Martin
nói.
“Đúng thế, nói hay lắm, chúng nó ba hoa tán dóc, bôi bẩn chân, thiện,
mỹ rồi vỗ vỗ vào vai ông ta mà nói: “Con chó khá lắm. Trung thành lắm!
Mẹ khỉ, một lũ khướu ba hoa. Richard Realf
[96]
đã gọi chúng nó như thế
đêm hôm ông ta mất.”
“Lấy mỏ mổ sao trên trời,” Martin sôi nổi nói. “Chỉ trích ánh sao băng
của các bậc thầy. Đã có lần tớ đã viết bài chửi cho bọn chúng một trận - bọn
phê bình, nhất là bọn duyệt bài.”
“Đưa tớ xem,” Brissenden háo hức giục.
Martin lôi ra một bản sao đánh máy tập “Mảnh sao.” Brissenden vừa
đọc, vừa cười khúc khích, quên cả uống rượu, hai tay cứ xoa xoa vào nhau.
“Tớ thấy rõ chính cậu cũng là một mảnh sao, bị ném vào cái thế giới
toàn những thần lùn giữ của, đầu đội mũ thầy tu, không nhìn thấy gì hết.”
Anh ta bình luận sau khi đọc xong. “Nhất định tờ tạp chí đầu tiên nhận
được bài cậu gửi đến hẳn phải vồ lấy đăng ngay, có đúng không nào?”
Martin lật giở những trang trong quyển sổ ghi ra và nói:
“Nó đã bị hai mươi bảy tạp chí gửi trả về đấy.”
Brissenden định cười một hồi dài, sảng khoái, nhưng tiếng cười của
anh bị ngắt quãng vì một cơn ho rũ rượi.
“Này, cậu chẳng cần phải nói với tớ là cậu đã không thử làm thơ,” anh
ta nói hổn hển, “hãy cho tớ xem một vài bài thơ của cậu.”
“Đừng đọc bây giờ vội,” Martin khẩn khoản. “Tớ muốn được nói
chuyện với cậu. Tớ sẽ gói một bọc và cậu có thể mang về nhà.”