xanh tàn ác, nhưng hắn ta cũng có thể là một người bạn. Đi, chúng ta phải
lên đường.”
“Và khi ông quay lại thì sao, Tars Tarkas?” Tôi hỏi.
“Những con chó hoang, có lẽ thế, hoặc tệ hơn,” ông ta đáp. “Trừ phi tôi
may mắn gặp được cơ hội chiến đấu với Tal Hajus mà tôi đã chờ từ lâu.”
“Chúng ta sẽ ở lại, Tars Tarkas, và đến gặp Tal Hajus đêm nay. Ông không
phải tự hy sinh bản thân mình, và có lẽ đêm nay ông sẽ có cơ hội mà ông
chờ đợi.”
Ông ta cực lực phản đối, bảo rằng Tal Hajus thường nổi điên lên khi nghĩ
tới cú đấm của tôi, và nếu hắn tóm được tôi, tôi ắt phải chịu những cực hình
khủng khiếp nhất.
Trong lúc đang ăn, tôi kể lại cho Tars Tarkas nghe câu chuyện mà Sola đã
kể vào cái đêm ở trên đáy biển chết trong chuyến hành quân về Thark.
Ông không nói gì, nhưng những cơ mặt to lớn run rẩy vì đau khổ khi nhớ
lại những sự kinh hoàng ập lên kẻ duy nhất mà ông thương yêu trong suốt
cuộc đời lạnh lùng, tàn nhẫn khủng khiếp của mình.
Ông không còn phản đối khi tôi đề nghị rằng cả hai sẽ đến gặp Tal Hajus,
chỉ nói rằng ông muốn nói chuyện với Sarkoja trước. Theo yêu cầu của
ông, chúng tôi cùng tới chỗ ở của ả.
“Sarkoja,” Tars Tarkas nói, “bốn mươi năm trước, vì ngươi mà một phụ nữ
tên là Gozava đã phải gánh chịu cực hình và cái chết. Ta vừa khám phá ra
rằng người chiến binh đã từng yêu người phụ nữ ấy đã biết công lao của
ngươi trong việc đó. Ông ta có thể không giết ngươi, Sarkoja, vì điều đó
không hợp với tập quán của chúng ta, nhưng không có gì ngăn cản ông ta
cột một đầu dây vào cổ ngươi và đầu kia vào một con ngựa hoang, chỉ để
xem ngươi có đủ sức khoẻ để sống sót và giúp cho việc duy trì nòi giống