Chúng tôi nuôi dưỡng mối quan hệ bằng những cuộc đi dạo thi
thoảng, và chúng tôi ăn tối với nhau hai lần. Nhưng do Savannah phải
đi dạy và đi học nữa, nên cô không thể ở lại lâu. Tôi cố gắng không
phàn nàn cô vì điều đó, bởi nếu vậy thì chúng tôi lại cãi nhau, tôi ghét
như thế, cô cũng ghét, nhưng hình như không ai trong hai đứa có thể
dừng lại được. Và dù cô không nói gì, thậm chí còn lảng tránh khi
phải đối đầu với chuyện này, nhưng tôi hiểu mấu chốt của vấn đề là
việc tôi có về nhà hẳn hay không. Đó là lần đầu tiên và duy nhất
Savannah từng nói dối tôi.
Chúng tôi cố hết sức tạm quên trận cãi cọ, và chia tay lại là một việc
đẫm nước mắt khác, dù không đến nỗi đau buồn như lần trước. Có thể
an ủi rằng mọi chuyện là do chúng tôi đã quen rồi, hoặc rằng cả hai
chúng tôi đều đã trưởng thành, nhưng khi tôi lên máy bay, tôi biết có
một cái gì đó không thể thay đổi được đã thay đổi giữa chúng tôi. Ít
nước mắt rơi hơn bởi vì cảm xúc mãnh liệt giữa chúng tôi hình như đã
giảm bớt.
Thật đau lòng khi nhận ra điều đó, và trong đêm trăng tròn tiếp
theo, tôi lang thang ra sân bóng vắng. Và đúng như tôi đã hứa, tôi nhớ
lại thời gian với Savannah trong kỳ nghỉ phép lần đầu tiên. Tôi cũng
nhớ lại kỳ nghỉ thứ hai nữa, nhưng lạ là tôi không hề nghĩ đến kỳ nghỉ
thứ ba, vì có lẽ ngay lúc đó tôi đã biết nó báo trước điều gì.
Khi mùa hè đến, bố tôi tiếp tục hồi phục dẫu vẫn còn chậm. Trong
thư, bố viết là ông đã đi dạo xung quanh khu nhà ba lần một ngày,
ngày nào cũng đi, mỗi lần đi đúng hai mươi phút, nhưng kể cả thế
cũng khó cho ông rồi. Nếu có điều gì tích cực thì đó là bố có việc để
làm lúc nghỉ hưu - thứ gì đó ngoại trừ những đồng xu. Cùng với việc
gửi thư thường xuyên hơn nữa, tôi bắt đầu gọi điện cho bố vào thứ Ba
và thứ Sáu chính xác lúc một giờ ở Mỹ, chỉ để đảm bảo chắc chắn
rằng ông vẫn khỏe. Tôi chăm chú lắng nghe bất cứ dấu hiệu mệt mỏi
nào trong giọng bố và nhắc nhở ông luôn luôn ăn uống đúng bữa, ngủ
đủ giấc và uống thuốc đều đặn. Thường thì chỉ có tôi nói là chủ yếu.