mình đã để mất đâu, nhưng vẫn có thể làm được.” Hắn vỗ lưng vị sếp Đơn vị
Chống cướp và ra hiệu về phía bàn cờ. “Đến lượt ông đấy, sếp.”
Ivarsson giận xì khói khi ông ta và Weber đi dọc hầm Culvert, một đường
hầm ngầm dài ba trăm mét nối liền nhà tù Botsen tới Sở Cảnh sát.
“Tôi đã tin tưởng một tên thuộc cái giống người đã phát minh ra sự dối
trá!” Ivarsson rít lên. “Tôi đã tin một tên Di gan khốn kiếp!”
Tiếng vọng dội lại từ các bức tường gạch. Weber hối hả bước đi; Ông ta
muốn ra khỏi cái đường hầm lạnh lẽo, ẩm ướt này. Hầm Culvert được dùng
để đưa tù nhân đến Sở Cảnh sát thẩm vấn rồi lại đưa trở lại nhà tù, và người
ta đồn đại khá nhiều về những chuyện xảy ra ở đây.
Ivarsson khép chiếc áo khoác chặt hơn quanh người và bước ra. “Hứa với
tôi một điều, Weber: anh sẽ không hở ra một lời với bất cứ ai. Được chứ?”
Ông ta quay về phía Weber, lông mày nhướn lên: “Thế nào?”
Câu trả lời cho đề nghị của Ivarsson là một tiếng ‘được’ dè dặt bởi họ vừa
tới chỗ tường sơn màu cam trong đường hầm và Weber nghe thấy một tiếng
‘bụp’ nhỏ. Ivarsson hét lên một tiếng kinh hãi và khuỵu xuống một vũng
nước, tay ôm ngực.
Weber quay trước quay sau nhìn suốt dọc đường hầm. Không một bóng
người. Rồi ông quay sang vị sếp lúc này đang trợn tròn mắt nhìn bàn tay vấy
đỏ của mình.
“Tôi chảy máu rồi!” Ông ta rên rỉ. “Tôi sắp chết rồi.”
Weber có thể thấy mắt Ivarsson càng lúc càng mở to thêm trên mặt.
“Gì vậy?” Ivarsson hỏi, giọng run lên vì sợ trong khi thấy Weber há hốc
miệng nhìn ông ta.
“Ông phải tới tiệm giặt khô rồi,” Weber nói.
Ivarsson liếc nhìn xuống dưới. Mực đỏ bắn tung tóe khắp cả phần thân
trước của chiếc áo sơ mi và loang lổ trên cái áo khoác màu xanh non chuối.
“Mực đỏ!” Weber đáp.