ra, tất cả những chi tiết nhỏ mà người ta không thể giấu sau mặt nạ.”
“Nhưng việc biết được danh tính của hắn chưa đủ,” sếp phó của Ivarsson,
Didrik Gudmundson ngắt lời. “Chúng ta phải…”
“Đúng thế,” Ivarsson cắt ngang. “Chúng ta phải có bằng chứng. Một tên
cướp có thể đánh vần tên của hắn trước máy ghi hình, nhưng nếu hắn đeo mặt
nạ và không để lại một chứng cứ xác thực nào thì trước pháp luật ta vẫn
chẳng có gì hết.”
“Vậy, bao nhiêu trong số bảy tên ông nhận ra đó cuối cùng đã bị kết án?”
Weber hỏi.
“Một vài tên,” Gudmundson nói. “Dù kẻ gây án vẫn nhởn nhơ thì việc biết
được hắn là ai vẫn tốt hơn. Nhờ thế chúng ta sẽ biết được chút gì đó về mô
thức tiến hành và phương pháp của chúng. Và lần sau chúng ta sẽ tóm
chúng.”
“Và nếu như không có lần sau?” Harry hỏi. Anh nhận thấy những mạch
máu trên tai Ivarsson vốn đã to lại càng phình ra thêm khi ông ta cười.
“Chuyên gia về những vụ giết người thân mến,” Ivarsson nói, vẫn còn vẻ
tếu táo. “Nếu anh nhìn xung quanh mình, thì anh sẽ thấy hầu hết mọi người
đều đang tủm tỉm phía sau chòm râu trước điều anh vừa hỏi. Đó là vì một tên
cướp ngân hàng nếu đã thực hiện trót lọt một vụ thì sẽ luôn luôn - luôn luôn -
tái phạm. Đó là định luật vạn vật hấp dẫn đối với đám cướp ngân hàng.”
Ivarsson nhìn ra ngoài cửa sổ và cho phép mình cười thêm tiếng nữa rồi mới
xoay người trên gót chân. “Nếu như buổi học dành cho người lớn hôm nay
kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta có thể xem xem có nghi phạm nào không.”
Ola Li nhìn Ivarsson, không chắc có nên đứng dậy không, nhưng cuối
cùng vẫn quyết định ngồi tại ghế. “Ừm, cuối tuần trước tôi có ca trực. Chúng
tôi đã có một cuốn băng được biên tập xong sẵn sàng vào tám giờ tối thứ Sáu,
và đã cho cả đội theo dõi xem cuốn băng trong Nhà Đau đớn. Những người
không có ca trực được gọi tới vào thứ Bảy. Cả thảy là mười ba cảnh sát theo