“Ngài Mason, ngài không tin tôi ư?”
“Không.”
Bà Kempton nổi giận, “Tôi kể cho ngài chính xác điều đã xảy ra ở đấy.”
“Thôi được,” Mason nói, “nếu lưu ý đến bối cảnh ở đấy, thì tôi cho rằng,
trong tám hoặc mười trường hợp, toàn bộ câu chuyện này có thể thành ra sự
thật, nhưng ai sẽ tin cho chuyện đó? Các bồi thẩm không tin, chánh án
không tin, các tay nhà báo cũng không tin nốt.”
“Tôi không hiểu, tại sao ai đó lại phải nghi ngờ những lời của tôi. Rút
cuộc, ông Addicts đã chú tâm dạy lũ đười ươi của mình cho việc đó mà.
Ông ta cố thôi miên chúng, cho chúng tín hiệu để giết người và… .”
“Đó là sự điên rồ!” Mason nói.
“Không có điên rồ gì ở đây cả!” bà kêu lên. “Nếu ngài muốn biết ý kiến
của tôi, thì trong quá khứ đã có gì đó khủng khiếp xảy ra với ông Addicts.
Ông ta luôn luôn sợ rằng ông ta có thể bị ép buộc giết người đâu đó ở ngoại
quốc, và theo tôi, ông Addicts định chứng minh rằng ông đã bị ai đó thôi
miên và dù tác động thôi miên dần dần biến đi, thế nhưng ông ta vẫn không
thể nào phục hồi lại nổi trí nhớ của mình.”
Mason đi qua căn phòng và dừng lại cạnh cửa sổ.
“Phải,” ông thốt ra chậm rãi, “nếu nhìn trường hợp này từ quan điểm các
sự kiện thì rõ ràng không thể bàn cãi. Nhưng cứ thử tưởng tượng rằng
chúng ta dùng sự kiện trên để bào chữa ở tòa án, trước các vị bồi thẩm
xem.”
“Đừng lo, ngài sẽ không phải làm việc đó đâu,” bà nói. “Cảnh sát đã làm
sáng tỏ với con đười ươi đó, vì thế họ đã thả tôi ra và xin lỗi vì sự tạm giữ.
Tôi không hiểu, tại sao ngài lại lo lắng đến thế về tòa án, các bồi thẩm, thưa
ngài Mason. Tôi tin tưởng rằng không ai buộc tôi vào tội gì cả.”
“Đó chính là điều phi lí nhất, là mê sảng trong toàn bộ câu chuyện này,”
Mason nói. “Bà ở một mình trong nhà có người bị giết. Nếu bà kể cho họ về
chuyện đã xảy ra và viết lời khai, thì họ còn có thể thả bà trong khi đang
tiến hành việc điều tra. Nhưng bà lại không hề kể gì với họ, đúng không?”
“Tôi không hề nói gì với họ.”