định giúi mũi vào những bí mật của cô gái quá cố.”
“Sao lại không nhỉ?” Mason hỏi.
“Sao lại là không ư?” bị sốc bởi lời đáp như thế, Fallon hỏi lại: “Tại sao?
ôi Chúa ôi, ngài Mason, mà sao - nghĩa là thế nào?… Dĩ nhiên là ngài đùa
thôi!”
“Thậm chí tôi không nghĩ đến chuyện đùa,” Mason nói. “Tôi thường hay
đạt được phương tiện để tồn tại chỉ nhờ rằng tôi hiểu biết ít nhiều về luật
pháp và ít nhiều về bản chất loài người hơn một chút so với một người
trung bình.”
“Vâng, vâng, vâng. Tôi hiểu, thưa ngài Mason. Tất nhiên, đó là lẽ đương
nhiên.”
“Không sao hiểu nổi bản chất loài người,” Mason nói , “nếu chỉ nghe
những gì người ta nói với ông.”
“Thực thế ư?” Fallon ngạc nhiên.
“Phải,” Mason gật đầu. “Mọi người bao giờ cũng thể hiện mình ở góc độ
có lợi nhất. Để nghiên cứu bản chất con người, cần phải quan sát mọi
người, khi họ không ngờ đến điều đó; cần phải lắng nghe các câu chuyện
của họ khi họ không biết rằng người ta nghe trộm họ; phải đào bới trong
các ý nghĩ của họ, nếu ta tin chắc rằng các ý nghĩ ấy là đích thực, cần
nghiên cứu con người, khi tâm hồn họ được bộc lộ ra từ nỗi đau đớn.”
“Nói thật, ngài Mason ạ, ngài đơn thuần làm tôi sửng sốt.”
“Lấy thí dụ là ông,” Mason tiếp tục. “Tuyệt đối không thể biết nổi về
ông, từ các suy nghĩ của ông đến những động cơ dẫn ông lại đây, cả điều gì
thực sự ông cần, nếu chỉ nghe những gì ông nói với tôi.”
“Tôi… ngài Mason… Ngài buộc tôi về tội đạo đức giả ư?”
“Xin hỏi ông một câu,” Mason nói. “Ông kể với tôi toàn bộ sự thật sao?”
“Thì tất nhiên rồi! Vâng, vâng, dĩ nhiên là toàn bộ!”
“Và nhật kí cần cho ông chỉ vì những động cơ tình cảm thuần tuý?”
“Ồ vâng, hoàn toàn chính xác.”
“Trong trường hợp như thế,” Mason nói, “tôi phải báo với ông rằng tôi
cần chúng cho công việc. Chúng giúp tôi hiểu tốt hơn bản chất con người.