“Và đồng thời,” Mason đế thêm, “ông ngoái lại không phải một lần. Phải
thế không?”
“Phải.”
“Ông tin chắc vào điều đó?”
“Chắc.”
“Bây giờ ông nhớ lại một cách chính xác rằng đã ngoái lại?”
“Phải.”
“Nhưng ông không nhớ điều đó chắc chắn mà, khi lần đầu tiên đưa ra lời
khai với sự tuyên thệ.”
“Tất nhiên, nhớ chứ.”
“Và như thế,” Mason nói, “ông cố che giấu điều đó.”
“Tôi nhận ra cái bẫy mà ngài giăng ra cho tôi. Tôi đâu đến nỗi đần.”
“Cảm ơn ông,” Mason nói, “đơn giản tôi muốn để tòa rõ quan điểm của
ông. Tôi đã xong.”
Hamilton Berger trao đổi ngắn gọn với trợ lí của mình, một luật sư trẻ
xuất sắc có tên là Ginzberg, người trong mấy tháng gần đây đã thắng một
loạt vụ tố tụng và kết quả là được cất nhắc lên phó biện lí.
Sự hiện diện của chính Hamilton Berger tại phiên tòa, tư vấn cho vị phó
của mình, chứng tỏ Mason được xem là một đối thủ lợi hại.
Sau cuộc hội ý ngắn thì thầm, Ginzberg gọi bà giám thị trại giam.
Bà giám thị khai dưới lời tuyên thệ rằng bị can Jozephine Kempton đến
trại tù nữ chỗ bà ta, rằng bà ta đã thu giữ quần áo của Jozephine Kempton
và đổi cho bà quần áo tù, còn quần áo thì chuyển cho Filipp Groton, giám
định viên và là nhà xét nghiệm chất độc.
“Bây giờ có câu hỏi thế này,” Ginzberg hướng về bà ta. “Bà có khám
người của bị can không?”
“Đã khám, thưa ngài. Bà ta cởi trần truồng và tắm. Tôi nghiên cứu từng li
cơ thể bà ta.”
“Bà tìm gì?”
“Các vết xước, vết đứt da, vết thâm tím hoặc những dấu hiệu cưỡng bức
khác.”
“Bà có phát hiện ra chúng không?”