“Không một con đười ươi nào có dấu vết máu ư?”
“Không. Chí ít là trên lông; hãy đợi chút, ở một con đười ươi có những
điểm máu,” không phải máu bắn vào mà là vết máu tụ lại từ vết rách của nó
ở bàn chân. Rõ ràng, nó làm chân bị thương khi giẫm vào một mảnh kính
nhọn sắc.
“Từ đâu ông biết điều đó?”
“Bởi vì ở đấy có mảnh kính,” một mảnh hình mũi kim cắm vào bàn chân
con đười ươi.
“Và mẩu kính đó đâu rồi?”
“Đó là mẩu vỡ bình thường. Tôi không biết sau nó biến đi đâu nữa.”
“Ai lấy nó ra?”
“Tôi.”
“Chính ông lấy nó ra từ bàn chân con đười ươi?”
“Vâng.”
“Thủ tục đó có đau đớn không?”
“Vào thời điểm ấy con đười ươi đã bị gây mê. Để giảm nhẹ việc tóm bắt,
người ta cho các con vật ăn các thứ quả với chất tác động gây ngủ mạnh.
Tôi phát hiện con đười ươi trong trạng thái hết sức bị kích động. Những con
chó canh dữ tợn đã dựng lên toàn bộ cảnh nhốn nháo này. Lũ đười ươi bị
kích động mạnh. Tiếng còi rú, tiếng chó sủa và những thứ tiếng bất thường
khác làm biến đổi hoàn toàn khung cảnh quen thuộc đối với chúng, vả lại
chúng còn ý thức rằng chúng vi phạm trật tự được thiết lập nữa…”
“Sao chúng rõ được điều đó?” Mason hỏi.
“Bởi vì chúng được thả ra khỏi cũi. Trí lực lũ đười ươi rất phát triển.
Chúng biết khi nào chúng cần ngồi trong cũi, và hiểu rằng chúng ở ngoài tự
do trong hoàn cảnh vi phạm chế độ đã thiết lập.”
“Tôi đã xong,” Mason nói.
Berger quay về phía chánh án, “Còn bây giờ chúng tôi gọi Mortimer
Hershy với tư cách là nhân chứng.”
Hershy đứng vào vị trí nhân chứng và khai dưới lời tuyên thệ rằng,
Khoảng hai tuần trước vụ án mạng, Benjamin Addicts đã lên kế hoạch tiến
hành một vụ kinh doanh lớn; các chi tiết vụ kinh doanh chỉ mình ông chủ