“Tất nhiên,” Mason nhận xét, “bà ấy bị buộc tội giết người, và nếu bà
ấy…”
“Bà ấy không giết anh tôi,” Herman Barnuell bình thản nói. “Tôi biết
rằng bà không giết người.”
“Ông biết?”
“Phải.”
“Tôi có thể hỏi, từ đâu ông rõ điều đó?”
“Đối với tôi chỉ cần việc bà Kempton không giết anh trai tôi là đủ. Anh
tôi cố che giấu quá khứ của mình. Chẳng có nghĩa lí gì phải úp mở, ngài
Mason ạ. Ngài quá tinh tường, để người ta có thể lừa nổi ngài bằng những
mánh khóe rẻ tiền. Tôi với anh trai không có tình cảm quyến luyến nhau
đặc biệt gì. Tôi cố thể hiện điều thân tình giữa chúng tôi trước công chúng,
nhưng trước ngài thì không. Benjamin ích kỉ hết mực. Chúng tôi sống với
nhau một thời gian ở Australia. Chúng tôi có công việc chung gắn với các
hầm mỏ. Sau đó nảy sinh những phức tạp với luật pháp - Một người đứng
chặn ngang đường chúng tôi, đã chết. Ông ta bị giết. - Tôi không muốn nói
rằng chính Benjamin đã giết người đó. Dù một số hoàn cảnh chỉ ra điều đó.
Cảnh sát điều tra vụ này qua loa. Họ cho rằng tôi gây ra vụ giết người.
Người ta xét xử tôi và phán quyết tôi có tội, sau đó hé ra những tình huống
mới chứng tỏ điều có lợi cho tôi, và tôi được minh oan. Thế nhưng
Benjamin đã biến đi không còn dấu vết. Thật may cho anh ấy, chưa bao giờ
anh bị lấy dấu tay, và anh đã thoát khỏi tất cả.
“Và lúc ấy, ông không biết ông ấy ở đâu?” Mason hỏi.
“Tôi cho rằng anh ấy đã chết. Benjamin rất tinh khôn. Anh ấy có một
chiếc tàu buồm nhỏ. Anh đi ra biển trên con tàu ấy khi cơn giông sắp tới.
Sau hai ngày con tàu được phát hiện với sống tàu chổng lên phía trên.
Không phát hiện một dấu tích gì của Benjamin trên đó. Lẽ tự nhiên, tất cả
cho rằng anh ấy đã chết.”
Mason nhíu trán.
“Tức ông ấy bỏ chạy và để ông lại một mình tự xoay xở lấy với lời buộc
tội giết người?”