chiếc đồng hồ đeo tay xếp ở trên sàn.
“Hãy tiếp tục lùi đi,” bà nói. “Chầm chậm lùi ra sau về hướng tôí.”
Mason gắng thực hiện các chỉ dẫn của bà. Bà cầm lấy tay ông, và ông
cảm thấy sức nặng thân thể bà khi bà tì vào cánh tay ông để đứng thẳng lên.
Con đười ươi không rời mắt khỏi các vật bày ở trên sàn, nó cúi xuống
chính xác y như Mason vừa làm trước đó.
“Nhanh lên,” bà Kempton nói. “Chỉ có điều đừng chạy đấy. Cứ mặc nó
điên đầu với bài giải đó. Hãy đi nhanh lên.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Mason hỏi.
“Tôi không biết,” bà Kempton cắt lời ông. “Trước tiên cần thoát ra khỏi
đây. Hiểm họa chết người đang đe dọa chúng ta. Con đười ươi này rất nguy
hiểm. Nếu nó biết rằng chúng ta sợ nó, hoặc bỗng nó có cảm giác là chúng
ta chạy trốn nó… Ôi, xin nhanh lên cho!”
“Trên giường có xác chết,” Mason nóí.
“Tôi biết,” bà đáp, “đó là Benjamin Addicts. Ông ta bị đâm.”
“Ai đâm ông ta?”
“Dừng nói chuyện đã. Hãy im lặng đi theo tôi, xin ngài đấy.”
Bà dẫn ông đi ngang qua giường vào buồng tắm.
“Lại đây, nhanh lên.”
Bà dập cửa và khoá lại, mở cánh cửa khác - ở phía đối diện buồng tắm, -
dẫn vào phòng ngủ tiếp giáp với buồng tắm.
“Hãy vội lên cho,” bà nói.
Giờ đây bà chạy, vừa chỉ đường cho Mason. Mason theo sát bà.
“Thế nếu con đười ươi này…”
“Chỉ có Chúa mới biết con đười ươi nghĩ gì trong đầu,” bà Kempton nói.
“Chưa biết còn có thể xảy ra điều gì nữa. Tất cả lũ đười ươi hành động hoàn
toàn không thể lường trước, mà với lũ vật này người ta còn làm các thử
nghiệm tâm lí nữa. Thần kinh chúng đã rệu rã hoàn toàn.”
“Nhưng vì Chúa, thế bà đã làm gì ở đây?”
“Tôi sẽ kể với ngài sau.”
Bà chạy qua phòng và đứng cạnh cửa, nghe ngóng. Sau đó bà mở cửa,
thò đầu ra hành lang, ngoái nhìn nhanh các phía và thì thầm, “Giống như