167. Cửa Thuận An, trước còn được gọi là cửa Eo, cửa Nộn, là một cửa
biển quan trọng ở Trung Kỳ thuộc tỉnh Thừa Thiên. Cửa này là thủy lộ
chính thông sông Hương qua phá Tam Giang ra biển Đông. Vì là nút giao
thông nối liền vùng cận duyên và lưu vực sông Hương, cửa Thuận An đóng
vai trò trọng yếu đối với cố đô Huế về mặt chiến lược, thương mại, cũng
như kinh tế.
168. Ngụ ý trận Trấn Hải Thành (1883), quân triều đình thất thủ trước sự
tấn công của quân Pháp, nhiều tướng lĩnh và quân sĩ triều đình đã anh dũng
hy sinh trong trận chiến này, trong đó có Trần Thúc Nhẫn, Nguyễn Trung,
Lê Chuẩn, Lâm Hoành...
169. Khâm sứ Trung Kỳ (tiếng Pháp: Résident supérieur de l’Annam) là
viên chức người Pháp đại diện cho chính quyền bảo hộ ở Trung Kỳ dưới
thời Pháp thuộc. Trên danh nghĩa viên chức này không nắm quyền nội trị
nhưng thực chất là Khâm sứ Trung Kỳ điều hành việc cai trị. Trước năm
1887 theo Hòa ước Giáp Tuất 1874 thì Pháp được quyền bổ nhiệm một
Công sứ (Trú sứ) (résident) ở Huế.
170. Lính của triều đình Huế.
171. Ernest Albert Brière là Khâm sứ Trung Kỳ giai đoạn 1891-1897.
172. Nguyên văn ministre plénipotentiaire, thường được dịch là ‘Đặc sứ’
hoặc hiện nay là ‘đại sứ đặc mệnh toàn quyền’; trước năm 1887, chức danh
này được gọi là Tổng Trú sứ; sau năm 1887 chức danh này được gọi là
Khâm sứ.
173. Nơi các vua Nguyễn thiết triều, tiếp kiến sứ giả các nước.
174. Nhiều sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian này có liên quan đến điều
tác giả đề cập ở đây, nổi bật là việc triều đình nhà Nguyễn ký với Pháp Hòa
ước Quý Mùi (25/8/1883) hay còn gọi là Hòa ước Harmand, chấp thuận chế
độ Bảo hộ của Pháp ở An Nam, và Trận Kinh thành Huế (5/7/1885) do Tôn
Thất Thuyết chỉ huy quân triều đình đánh vào lực lượng Pháp nhưng thất
bại.
175. Tức Tuy Lý Vương Miên Trinh (Nguyễn Phúc Thư, 1820-1897), ông
là con thứ 11 của vua Minh Mạng. Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, ông
được cử làm Ðệ nhất Phụ chính thân thần.