chính xác hơn cả về mặt kỹ thuật). Nhưng dù được gọi là gì chăng
nữa, chúng vẫn là những khoản phải trả (xét trên góc độ tiền bạc,
hàng hóa vật chất, hay thậm chí là sự ủng hộ về tình cảm) mà một
số thành viên của một nhóm người phải cung cấp cho người khác
nhằm thắt chặt sự cam kết của người đó với nhóm của mình. Nghe
có vẻ vô cảm, nhưng nó lại cho phép chúng ta có một cái nhìn tường
tận về những điều đang diễn ra sau hậu trường của những hoàn
cảnh cảm tính nhất. Chẳng hạn, khi cuộc hôn nhân đầu tiên của tôi
tan vỡ, một luật sư đã kéo chúng tôi ngồi lại và hỏi mỗi người xem
liệu người kia đã cống hiến đủ để giữ họ lại với cuộc hôn nhân chưa.
Sau khi nhận được câu trả lời, bà ấy lại chuyển sang người kia và hỏi
xem liệu người đó có sẵn sàng trao thêm để cứu vãn hôn nhân hay
không.
Vị luật sư không nói về tiền bạc mà về sự tôn trọng, sự ủng hộ
về tình cảm và tất cả những gì tạo nên một cuộc hôn nhân viên
mãn. Khi làm thế, bà rõ ràng đã coi những tương tác giữa con người
với nhau là những cuộc chơi có chiến lược và kết quả giữa chúng ta,
có được và mất, có người thắng kẻ bại. Điều này không mới đối
với các nhà thần kinh học, nó cũng không nhất thiết làm giảm đi
giá trị của các mối quan hệ – nó chỉ xem xét các mối quan hệ dưới
một góc độ khác và thường khai sáng thêm. Các lý thuyết gia trò chơi
cũng sử dụng một mô hình hành vi con người tương tự để so sánh
kết quả của các chiến lược khác nhau mà chúng ta vận dụng khi
chơi trò chơi cuộc đời, đồng thời để tìm ra chiến lược phù hợp
nhất trong các tình huống khác nhau. Chí ít, họ cũng đặt mục tiêu
liệt kê ra kết quả của những chiến lược đó theo thứ tự (ví dụ như
“xấu”, “tốt”, “tốt hơn”, “tốt nhất”). Tuy nhiên, để nhận được
đầy đủ giá trị từ phương pháp của mình, họ cần phải gán giá trị số
vào những kết quả đó.