bưu điện bay ra như bươm
bướm khắp các nơi, khiến các cụ, các quan, các ông, các
bà, ai thấy cái tin đau đớn bà cụ thụ bệnh mà tạ thế, cũng phải
giật mình mà vội vã đến thăm viếng, và chia buồn cùng người
gặp lúc vận hạn.
Rồi đến đúng 8 giờ ngày 12 Février, đám tang cử hành.
Đầu tiên, năm lá cờ ngũ hành phấp phới theo chiều gió. Rồi đến ông
Thiên Lôi, bà La Sát, cao lênh khênh đi hai bên. Một đoàn trống cà rùng,
rinh tùng rinh, đi xung quanh chiếc trống cái, mà những phu điều áo nỉ đỏ,
nón dấu son. Kế đến một cái kiệu long đình sơn son thếp vàng, thong thả
tiến từng bước, trông rất uy vệ chững chạc. Theo sau cái long đình, là bốn
cái xe nhà bóng nhoáng, trên có bốn vị sư, mỗi vị đi hai lọng. Rồi ước trăm
bà vãi đội cầu dài dằng dặc, mỗi bà tay cằm phướn, miệng tụng kinh ầm
ầm. Một cái binh tinh cao ngất nghểu đi trước một bức trướng vóc như
căng ngang đường, có bốn chữ quen quen là “Dĩ sơn vân ám” to tướng.
Đoạn rồi đến hàng hai trăm câu đối, cái vàng, cái trắng, cái đen, cái tím, cái
xanh, cái bằng xa tanh, cái bằng vóc, cái bằng lượt, cái bằng dạ, sắp hàng
đôi, mà trẻ con đứa nào cũng mặc áo dài trắng. Những câu đối ấy toàn chữ
nho khó đọc cả. Duy chỗ lạc khoản thì dễ nhận hơn. Có chữ giống như thẻ
bài ngà của cụ Thượng. Có chữ trên thì rậm rì khó đọc, nhưng dưới thì là
chữ “lâm”, muốn chừng là “hàn lâm”. Có câu thì người ta bảo của cụ lớn
Bố chánh. Có câu thì trông rõ ba chữ “Bắc kỳ nhân”, rồi có ba chữ cuối
mới đến tên. Nói tóm lại, nhiều quá, không ai nhớ hết. Vì còn những câu
của ông Phủ, ông Huyện, ông Tham, ông Phán, chi chít những chữ nho là
chữ nho.
Sau đoàn câu đối thì là bốn năm cái bàn độc, rước đồ tam sinh với các
phẩm vật, cứ đồ mặn lại xen đồ chay, mà cuối cùng thì rước con bò to kếch.
Bàn nào bàn nấy chằng chịt những dây vải trắng tinh.