Nhà ông nhang Chỉnh bây giờ khá. Trong năm, sáu năm trời, ông
trình bày với làng nước, rất khéo léo, sự của nả nhà ông như sau
này.
Bắt đầu, ông xây một cái cổng gạch có hai tấm cánh cửa gỗ.
Trên nóc, đắp bốn chữ số ngòng ngoèo: 1940 vờn vào nhau. Rồi
một con đường gạch nhỏ một hàng con kiến lát từ cổng nối liền
vào đến thềm hè. Ấy là cái năm ông dỡ tất cả bốn bức vách
xung quanh để xây con kiến hai đầu hồi và lớp tường hậu. Còn
thừa gạch, ông lại cho lát hai vỉa xung quanh thềm ra đến gần
giữa sân. Như thế, là ông yên chí lắm. Vì, rất có thể, một vài năm
nữa, có đồng ra đồng vào hơn nữa, ông dỡ cái mái lợp ngói lên, là
đã ra một nếp nhà gạch tươm tất rồi. Ông chờ.
Bây giờ ông nghĩ cách bày biện ở trong nhà. Gian giữa, lù lù một
cái tủ chè. Cái tủ chè bằng gỗ mộc, trắng lôm lốp. Tuy trông nó
không được đẹp lắm, nhưng thiếu nó là thiếu tất cả, là cái nhà
không có hồn. Trong khi lại ngóng dịp có tiền để tậu một cái tủ chè
gỗ gụ, đánh bóng đen sẫm, thì ông nhang Chỉnh hãy cứ chơi tạm cái
này để ước lấy chỗ kê. Hai gian bên, treo la liệt những ảnh và tranh
Tàu lòe loẹt. Trên bàn thờ, cái đỉnh đồng bóng nhoáng làm át cả
những chiếc mâm đồng đỏ và chiếc đèn ba dây đen xỉn. Gian bên
phải, một cái phản bằng ba tấm gỗ mít. Bên trái, nơi tiếp khách,
song song hai chiếc tràng kỷ. Thế là nhà ông nhang Chỉnh sang ra
phết rồi. Trong làng, chẳng có mấy nhà được lịch sự như vậy.
Ông thích khoe cho bà con biết mọi vẻ sang trọng của nhà ông.
Nhưng ông biết cách khoe. Ông không nói trắng rằng: Nhà tôi có
cái này... nhà tôi có cái nọ... đẹp lắm... quý lắm. Không, ông không
nói thế. Ông đứng chơi lơ phơ ngoài đầu ngõ. Ai quen mà đi qua,
ông đon đả: