Nhưng cũng vẫn còn cuộc trở về của đôi chim. Ấy là một ngày
mùa đông có nắng, sau trận mưa ghê gớm liên miên đến nửa
tháng. Mọi vật vẫn chưa khỏi hẳn ẩm ướt. Nước ám nhiều quá.
Bức tường ngoài đầu ngõ, thảm rêu lên xanh om. Tuy nắng,
nhưng nắng chưa đủ gây ấm. Không khí vẫn phảng phất hơi giá.
Đôi chim ri lìa tổ ngơ ngác ở đâu về đậu bên cây bưởi. Bác sẻ ở
dưới sân, đứng trong nắng để hong lông, hong cánh, trông thấy
đôi chim đáng ghét liền bay vù lên nóc nhà và kêu choe chóe như bị
ai bóp cổ. Chàng ri đực liệng vào trong vườn lá hồng bì. Chàng vào
thăm tổ. Trận mưa cũng có làm hư hại mất đôi chút. Mấy chú
nhện lạc lõng nơi nào đã chăng mạng kín cả cửa ngõ. Ri ta mới tức
làm sao! Hắn mổ luôn cho mấy mỏ, tan hoang cả khung cửa nhện.
Vào trong tổ, hắn dùng mỏ và cẳng bới xếp, dọn lại một lát thì
giường nệm lại phẳng phiu gần được như cũ. Hắn chui ra,
nhường chỗ cho vợ vào. Chị ả lại nằm xềm xệp thò chiếc mỏ
ngắn ngủn ra cửa.
Và hai vợ chồng lại luôn luôn thay nhau ấp tổ. Mười hôm, ri cái
đẻ ra một chiếc trứng nhỏ xíu. Trước sau chị đẻ được bốn chiếc
trứng. Bốn chiếc trứng chỉ nhỉnh hơn bốn củ lạc lớn, màu trắng
đục lốm đốm nâu, nằm đều đặn, gọn thon lỏn trong lòng tổ. Chị
ri phải xòe lông bụng ra mới đủ che cả bốn trứng.
Trong cái tiểu gia đình này, người ta nửa mừng và nửa lo. Sáng
ngày ra, hai vợ chồng hát nho nhỏ. Họ hát ru sao? Chỉ có mỗi một
điệu hót ke ke. Và riêng khi nào vui lắm, âu yếm nhau lắm, họ
mới rung hai cánh mà làm điệu mỏ ri ri ri... Họ ăn ở dè lén, bình
lặng, chịu khó, ít ồn ã. Cuộc đời trôi chảy âm thầm dưới vòm lá
xanh, y như cuộc đời của những người Nghĩa Đô, cần cù và nghèo