phải được triệu tập trong một ngày được luật pháp chấp thuận; thứ ba, phải
có những dấu hiệu thuận lợi qua một cuộc bói toán.
Lý do của điều kiện thứ nhất không cần phải giải thích; điều kiện thứ hai
chỉ là vấn đề chính sách. Vậy buổi dân hội sẽ không được triệu tập vào các
ngày lễ hay các ngày phiên chợ, khi dân chúng vùng quê đi vào La Mã vì
công việc họ không có thì giờ cho các ngày dân hội. Bằng điều kiện thứ ba,
Nguyên lão Thượng viện kìm hãm một dân tộc kiêu hãnh và năng động, và
kiềm chế nhuệ khí của các bảo dân quan thích nổi loạn; nhưng các vị này
đã tìm ra nhiều cách để vượt qua chướng ngại đó.
Luật pháp và việc bầu cử các lãnh tụ không chỉ là những vấn đề được các
dân hội xét đến: Dân chúng La Mã đã tự dành cho mình những chức vụ
quan trọng nhất trong chính phủ; ta có thể nói rằng vận mệnh của Âu châu
đã được giải quyết trong các buổi họp ấy. Nhiều đề mục như vậy đòi hỏi
nhiều hình thức dân hội, tùy theo vấn đề cần được xem xét.
Muốn xét đoán các hình thức ấy ta chỉ cần so sánh chúng. Romulus, khi
thành lập các tộc đoàn có mục đích để dân chúng kiểm soát Nguyên lão
Thượng viện và Nguyên lão Thượng viện kiểm soát dân chúng, cuối cùng
mình chế ngự cả hai bên. Cho nên, qua dân hội, Romulus cho dân chúng
quyền hành bằng số đông để cân bằng quyền thế và sự giàu sang của giới
quý tộc. Nhưng, theo tinh thần của chế độ quân chủ, Romulus dành cho
giới quý tộc một lợi thế lớn hơn trong việc ảnh hưởng các tộc viên của
mình để chiếm đa số trong các cuộc đầu phiếu bằng cách cho phép giới quý
tộc quyền mua sự ủng hộ của các tộc viên. Định chế xuất sắc về quý tộc và
tộc viên là một kiệt tác về tài lãnh đạo chính trị và bản chất con người;
không có định chế này, giới quý tộc không thể tồn tại vì họ đi ngược với
tinh thần của nền Cộng Hoà. Riêng thành phố La Mã được vinh dự đã cho
thế giới một tấm gương tốt trong đó không có sự lạm quyền, nhưng không
một thành phố nào noi theo gương đó.