làm họ hoài nghi). Các ngân hàng cũng có nhu cầu, bởi vì theo quy định Basel 1 các
chứng khoán được định mức AAA không cần hay cần rất ít vốn dự phòng. Trái
phiếu AAA cũng được sử dụng trong các chương trình thương phiếu được đảm bảo
bằng tài sản và các công cụ đầu tư đặc biệt hay SIV, hầu hết do các ngân hàng lập
nên. Các chương trình và các công cụ này hoạt động giống như một ngân hàng, trả
lợi nhuận cho “người gửi tiền” trong khi nắm giữ các khoản cho vay dài hạn, nhưng
điểm hấp dẫn của chúng chính là chúng không bắt buộc phải tuân thủ các quy tắc
vốn mà các ngân hàng phải áp dụng. Chúng phát hành thương phiếu, thời gian đáo
hạn thường là ba tháng và sử dụng tiền để mua chứng khoán AAA, thông thường là
các CDO như đã miêu tả.
Quỹ đầu tư phòng hộ là một nguồn nhu cầu quan trọng khác của các nhà đầu tư,
thường là cho các phần CDO rủi ro cao hơn. Bằng cách sử dụng nguồn quỹ mượn từ
các ngân hàng để mua thương phiếu lợi nhuận cao, các quỹ đầu tư phòng hộ có thể
kiếm được khoản lợi nhuận vô cùng hấp dẫn. Tình trạng đầu cơ vay nợ (dùng đòn
bẩy tài chính) có thể khá lớn khi lượng tiền đi vay đôi khi gấp mười lần mức đóng
góp từ các nhà đầu tư quỹ đầu tư phòng hộ. Xét về mặt nào đó, quỹ đầu tư phòng hộ
cũng có thể phòng tránh rủi ro, sử dụng các chỉ số (như chỉ số CDX) liên quan tới
hoạt động của các CDO này. Nhưng các chỉ số này không phải là phương thức
phòng hộ hoàn hảo. Tất nhiên nếu chúng hoàn hảo thì họ sẽ không kiếm được lợi
nhuận!
Có hai vấn đề trong việc chuyển đổi rủi ro của hệ thống CDO. Vấn đề thứ nhất là
lòng tin vào giá nhà đất và khả năng trả nợ (vay thế chấp) trở nên quá lạc quan. Nói
một cách công bằng, các tổ chức định mức tín dụng thận trọng hơn hầu hết các đơn
vị khác. Thực tế họ cũng đã nghĩ đến khả năng giá nhà đất có thể giảm và họ đã
kiểm chứng những định mức đưa ra và điều gì có thể xảy ra nếu tỷ lệ không thể trả
nợ (defaults rate) tăng cao. Tuy nhiên họ vẫn chưa đủ cẩn trọng. Họ có rất ít số liệu
từ quá khứ để nghiên cứu, trong khi những gì họ có là từ khi giá nhà đất đang tăng
và khi các khoản đặt cọc khá lớn. Mọi người ít có khả năng không trả được thế chấp
khi họ đã bỏ ra một lượng tiền lớn, thậm chí trường hợp họ gặp khó khăn. Vào cuối
năm 2007 và 2008, các tổ chức định mức tín dụng liên tục hạ cấp ( downgrade )
hàng loạt các CDO, mặc dù khi đó họ đã đánh mất lòng tin của rất nhiều nhà đầu tư.
Vấn đề thứ hai là một khi tỷ lệ không thể trả nợ tăng cao và câu hỏi đặt ra liệu các
phần CDO được định mức AAA có còn an toàn, các nhà đầu tư không thể biết vấn
đề có thể tồi tệ như thế nào. Ẩn sâu bên trong các khoản đầu tư là hàng trăm khoản
thế chấp nhỏ. Làm sao mà các nhà đầu tư có thể kiểm tra liệu một chủ nhà nào đó có