và không cần lo lắng về lạm phát. Mức khác biệt này được gọi là phần bù rủi ro lạm
phát (inflation risk premium). Nếu nguy cơ lạm phát có vẻ tăng cao thì phần bù này
sẽ tăng, và ngược lại. Trong môi trường lạm phát thấp và các ngân hàng trung ương
thận trọng hiện nay, phạm vi hợp lý cho phần bù rủi ro là từ 0% đến 1%.
Nói chung, lãi suất thực tế mà các chính phủ phải trả cho việc đi vay thông qua
trái phiếu truyền thống thường nằm trong phạm vi 2%-4% và ít nhất là cao hơn một
chút so với lợi nhuận của trái phiếu gắn liền với chỉ số, vốn thường vào khoảng
2%-3% mỗi năm. Một phần quan trọng của tranh luận trong chương này là các giới
hạn giá của thị trường được đưa ra phải hợp lý theo quan điểm của cả nhà đầu tư và
người đi vay. Vì vậy, đối với lợi nhuận trái phiếu chính phủ, điều quan trọng là chi
phí đi vay thực tế từ 2%-4% là chi phí dài hạn hợp lý để chính phủ hoàn trả, vì nhìn
chung là nó phù hợp với hiệu suất của nền kinh tế. Các số liệu ở đây đã đúng. Tại
Mỹ, xu hướng tỷ lệ tăng trưởng dài hạn khoảng 2,5%-3,5% mỗi năm, do đó, tiền
thuế cũng được dự kiến sẽ tăng lên khoảng tỷ lệ đó (trong điều kiện thực tế). Nói
cách khác, các khoản thuế trong tương lai phải đáp ứng được các chi phí dịch vụ của
khoản nợ thêm đó.
Một phương pháp tiếp cận khác là xem xét lãi suất danh nghĩa và so sánh nó với
tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa. Nếu GDP danh nghĩa tăng 5% mỗi năm, bao
gồm (ví dụ như) 3% tăng trưởng và 2% lạm phát, thì chính phủ có thể trả 4%-6% lãi
suất cho các khoản nợ một cách thoải mái. Tất nhiên, nếu chính phủ đang liên tục
chi trả 6%, mức cao nhất trong giới hạn của tôi, thì các tài khoản quốc gia sẽ giảm
dần. Nhưng nếu chính phủ không mang nợ quá nhiều thì nó sẽ không tê liệt ngay tức
khắc.
Nhìn chung, lợi nhuận thực tế của trái phiếu chính phủ ở mức 2%-4% dường như
là những gì chúng ta nên mong đợi. Nhưng giờ đây chúng ta lại gặp vấn đề khác.
Các nhà thống kê đã tính toán lợi nhuận từ trái phiếu trong quá khứ và nhận ra rằng
nó thấp hơn con số này một cách đáng kể. Một trong những nghiên cứu đáng tin cậy
cho thấy rằng trong 100 năm, từ năm 1900 đến 2000, lãi suất trái phiếu Mỹ đã chỉ
cao hơn lạm phát 1,6% mỗi năm, trong khi con số không đáng kể này là 1,3% mỗi
năm đối với trái phiếu Anh.
Tôi tin rằng lý do của việc này đơn giản là các nhà
đầu tư đã gặp phải các sự kiện bất ngờ. Họ đã mua trái phiếu với kỳ vọng rằng lợi
nhuận trái phiếu cao hơn so với lạm phát dự kiến trong tương lai, nhưng họ đã sai.
Các sự kiện bất ngờ đó là ba giai đoạn chính của lạm phát, trong suốt Thế chiến thứ
I, Thế chiến thứ II, và sau đó là toàn bộ làn sóng lạm phát đột ngột trong thập niên
1970.