KHI BONG BÓNG VỠ - Trang 183

Ở một thời điểm bất kỳ, các nhà đầu tư mua trái phiếu với lợi nhuận kỳ vọng

khoảng 2%-4%, nhưng họ đã tiếp tục bị thất vọng.

[90]

Cuối cùng, vào thập niên

1980, họ đã hết sức nghi ngờ các chính phủ và đã từ chối mua trái phiếu, trừ khi lợi
nhuận phải cao hơn nhiều so với lạm phát, nghĩa là phần bù rủi ro đặc biệt rất cao.
Khi lạm phát bất ngờ giảm nhanh nhờ vào các nỗ lực của Paul Volcker và Ronald
Reagan ở Mỹ, và Margaret Thatcher ở Anh, các nhà đầu tư đã được tưởng thưởng
với lợi nhuận khổng lồ. Trong 10 năm qua, sự lo ngại lạm phát đã xuất hiện ở cuối
mỗi đợt tăng giá, ví dụ như giai đoạn 1998-2000 và 2007-2008, nhưng đã được cân
bằng bởi các nỗi lo về giảm phát, trong năm 2003 và bây giờ là một lần nữa. Cuối
cùng có lẽ thị trường trái phiếu đã trở lại tình trạng bình thường và theo tôi giới hạn
lợi nhuận hợp lý lại nằm trong khoảng 2%-4%.

TRÁI PHIẾU KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN

Bây giờ chúng ta hãy xem xét một loại tài sản có rủi ro cao hơn, trái phiếu của

khu vực kinh tế tư nhân. Đây là các trái phiếu do các công ty tư nhân phát hành, do
đó các nhà đầu tư không chỉ phải đối mặt với phần bù rủi ro lạm phát mà họ cũng
cần có phần bù rủi ro cho nguy cơ công ty bị phá sản. Do đó lợi nhuận của các trái
phiếu này cũng dao động cao hơn trái phiếu chính phủ, dựa vào rủi ro tín dụng gắn
liền với công ty đó. Thường thì trái phiếu kỳ hạn càng ngắn thì độ chênh càng nhỏ,
vì người ta dễ dàng tin rằng trong ngắn hạn, một công ty sẽ ít có khả năng bị phá sản
hơn là trong dài hạn.

Tuy nhiên, mức chênh lệch lãi suất thay đổi theo chu kỳ kinh tế. Ví dụ như lãi suất

của hầu hết trái phiếu Mỹ của các công ty được xếp hạng BBB (hạng thấp nhất của
các công ty được xếp hạng để đầu tư) dao động cao hơn khoảng từ 1% đến 3,5% so

với lợi nhuận Trái phiếu kho bạc.

[91]

Các nhà đầu tư có xu hướng bi quan nhất trong

các thời kỳ suy thoái và lạc quan nhất khi giá tăng. Mặc dù sự phá sản có thể xảy ra
ở một thời điểm bất kỳ trong suốt chu kỳ, nhưng có vẻ như chúng phổ biến hơn
trong suốt và ngay sau các đợt suy thoái, và đó là khi mức chênh lệch, hoặc phần bù
rủi ro, có xu hướng lên đến khoảng 3,5%, ví dụ như năm 1990 hoặc 2001. Trong
suốt các thời kỳ phát triển kéo dài như thập niên 1990 hoặc giai đoạn 2003-2007,
mức chênh lệch đã giảm xuống còn 1% hoặc thấp hơn. Khi tôi viết quyển sách này,
mức chênh lệch hiện tại đã gần với trần giới hạn, khoảng 3,3%, phản ánh sự lo ngại
của nhà đầu tư đối với thời kỳ đình trệ của nền kinh tế. Nói cách khác, các nhà đầu
tư đang đòi hỏi có thêm 3,3% mỗi năm so với trái phiếu chính phủ để bù đắp rủi ro.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.