Nếu giá dầu tăng, người tiêu dùng sẽ khổ sở thêm chút ít. Tuy nhiên, ở
đây chúng ta đang nói về việc cần cắt giảm nhu cầu đi vài phần trăm một
năm. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đặt cối xay gió lên xe; mà có
nghĩa là chúng ta phải cắt những chuyến đi chẳng mang lại lợi lộc gì nhiều.
Điều đó không có nghĩa là phải bỏ hoang Bắc Dakota, nó chỉ có nghĩa là
chúng ta cần giữ bộ điều nhiệt thấp hơn 1-2 độ trong mùa đông.
Sau đó, tác giả này lại viết:
Sự khởi đầu của mức giá ba con số dường như là phúc lành cho
người Ả-rập Xê-út − họ sẽ thu được nhiều tiền hơn cho số dầu ngày
càng khan hiếm của mình. Nhưng một trong những hiểu lầm phổ biến
về người Ả-rập Xê-út − và về người dân các nước OPEC nói chung −
là giá dầu cao, bất kể cao ra sao, sẽ có lợi cho họ.
Mặc dù dầu khi có giá hơn 60 đô-la một thùng không gây ra suy
thoái toàn cầu, song nó vẫn có thể xảy ra: mức giá cao cần có một thời
gian mới gây ra tác động phá hủy. Và mức giá càng cao hơn mức 60
đô-la, suy thoái càng có khả năng xảy ra. Giá dầu cao sẽ gây ra lạm
phát, tăng chi phí của gần như mọi thứ − từ giá xăng dầu tới giá nhiên
liệu máy bay, tới đồ nhựa và phân bón − và điều đó có nghĩa là mọi
người sẽ mua sắm ít hơn, đi lại ít hơn, đồng nghĩa với sự sụt giảm hoạt
động kinh tế. Vì vậy, sau khi lộc trời rơi xuống túi các nhà sản xuất,
giá dầu sẽ giảm khi suy thoái dần lộ bóng và những nền kinh tế từng
tiêu thụ dầu cao sẽ sử dụng ít dầu hơn. Trước đây, giá dầu đã từng sụt
giảm và thời điểm đó cách đây không lâu: năm 1998, giá dầu giảm
xuống còn 10 đô-la một thùng sau một đợt tăng sản lượng không phải
lúc của các nước OPEC, trong khi cầu ở châu Á giảm do khủng hoảng
tài chính.
Đến đây thì vừa trọn cả lý lẽ cho đỉnh sản xuất dầu. Khi giá tăng, nhu
cầu giảm, giá dầu sẽ giảm. Điều gì sẽ xảy ra với “sự cáo chung của thế giới
mà chúng ta biết”? Giờ chúng ta trở lại với thời điểm dầu có giá 10 đô-