nhìn trời, ước lượng, rồi "Ừ". Nó bảo ông Cụt: "Bác cho con mượn cái áo
mưa, con đưa chị con về, lát hồi con đem qua". Ông Cụt chỉ lên vách: "Có
tấm ni-lông với cái nón thôi, tao không có áo!" Hoài cười: "Tốt rồi!", xong
gọi: "Chị Hai lại đây!". Nó đội nón cho chị, choàng tấm ni-lông qua vai rồi
buộc lại bằng cái nút to tướng ở cổ, nó ra lệnh: "Đưa chân ra đây tôi sắn
quần cho không té!", rồi dặn: "Đi từ từ thôi nhe chị Hai!". Chị Hai cười,
ngu ngơ, lũ em, tay xách giỏ, tay nắm quần, cùng cười. Cả bọn lại dò dẫm
trên con đường về nhà, đất đỏ giờ nhão ra, trơn như sáp. Những lô cao su
bên đường vắng lặng, gây cảm giác sờ sợ... Tôi thì thầm vào tai Hà: "Hoài
nó thương chị Hai quá ha!". Hà gật đầu, cười: "Ờ, cả nhà được mình nó,
hên mà có nó, không có nó, sau này chị Hai biết sống với ai!". Tôi thấy
điều này hơi ngây ngô, tin sao được tình cảm một đứa bé mười tám, mười
chín, nhất lại là một đứa lang bạt như Hoài! Vậy nên, tôi chỉ cười nghi
hoặc, Hà trợn mắt nhìn tôi: "Thật đó! Nó đi suốt, nhưng nó mà ở nhà đừng
có ai hó hé gì với chị Hai", rồi cũng như nghĩ lại, Hà buông một câu: "Mà
bây giờ thì thế, sau này còn biết bao nhiêu chuyện, phải không?".
6.
Về thành phố, nghỉ được một tháng, đi học lại được khoảng hai tuần
nữa thì tôi nhận được tin Hoài mất. Một cái chết đuối như mọi trường hợp
chết đuối khác, rủi ro xảy ra trong một cuộc picnic nào đó trên hồ. Người ta
phải đau lòng chờ chực để vớt được xác Hoài, đã căng đầy nước và hồn
phách có lẽ đang lang thang ở một góc trời nào đó. Đưa Hoài về, chị Hai
hỏi mợ: "Em đâu?", mọi người lại òa khóc, khóc nhiều hơn là khi nghe các
câu kể lể, than thở khác. Tôi muốn biết chị Hai có khóc không, Hà bảo:
"Tao không hỏi!". Có lẽ cũng không ai để ý đến điều này.
Lại mưa, mùa mưa. Tôi nghĩ rừng cao su, với những chiếc chén đựng
mủ đeo bên hông cây, giờ này hẳn buồn lắm. Và trong cái nhà ẩm ướt đỏ
quạch màu đất ba gian ấy, chị Hai chắc đang ngơ ngẩn nhìn mưa trong đồi
cỏ, tóc dài không ai tết hộ, lại xõa ra, vô hồn.